Saturday, December 23, 2006

Thiên Thần của hoà bình!

Ðại lễ Giáng Sinh, một đại lễ Kitô giáo của ơn phúc Thiên Chúa tuôn đổ trên nhân loại Ơn Hòa Bình! Ðể hiểu và sống trọn ơn đó, chúng ta hãy theo dõi câu chuyện sau đây:
“Trong khi đại ca đoàn Thiên thần vui mừng múa nhảy và ca hát nhịp nhàng trên cánh đồng Bê-lem ‘Vinh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dưới thế cho mọi người dương gian!’ bổng nhiên một vị Thiên thần nhỏ đã ngừng hát. Thấy thế, những vị Thiên thần bạn đứng bên cạnh cảm thấy mất hứng và cũng không chịu tiếp tục hát nữa. Sự im lặng cứ thế lan ra cách nhanh chóng, gần như làm lung lay cả ca đoàn Thiên quốc, nếu như các vị Thiên thần lớn tuổi và có tiếng hát mạnh mẽ không tìm cách hát thay vào để ngăn cản sự cắt quãng đột ngột của bài hát. Sau đó một trong các vị lớn tuổi đi tìm hiểu lý do của sự cố. Ngài đến bên vị Thiên thần nhỏ và nghiêm nghị hỏi « Tại sao em không muốn tiếp tục hát nữa?” Vị Thiên thần nhỏ bèn lễ phép trả lời « Dạ, em rất muốn hát chứ! Và em đã hát hết câu ‘Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời’. Nhưng khi đến câu ‘Bình an dưới thế cho mọi người dương gian’ em không sao tiếp tục hát được nữa. Bởi vì có lần em đã trông thấy có quá nhiều quân lính Roma đang trú đóng miền Bê-lem này cũng như ở nhiều nước khác nữa, họ đã luôn luôn gây ra chiến tranh và bao nhiêu điều khủng khiếp khác, họ sát hại các trẻ sơ sinh, các bà mẹ và cả những ông bà già, để mọi người sợ mà tuân theo mệnh lệnh bất công của họ, chứ không dám kêu ca phản đối, và họ gọi đó là nền hòa bình thịnh vượng của đế quốc Roma. Ngoài ra, còn ngự trị trên khắp thế giới nào là cãi cọ, tranh chấp, bạo động, thù hằn giữa con người với nhau. Cả giữa những người được gọi là trí thức, những học giã, những người được học nhiều biết rộng, cũng vì bất đồng quan điểm về chính trị, văn hóa, xã hội hay tôn giáo, v.v.. mà đâm ra hận thù, ghen ghét và bài trừ, thủ tiêu lẫn nhau. Phải chăng người ta có thể gọi đó là hòa bình, là bình an, cho mọi người đang sống trên dương gian? Phần em, thú thật, em không sao tiếp tục chỉ hát trên đầu môi chóp lưỡi những điều không đúng sự thật như thế được. Em không thể đi ngược lại sự xác tín của lòng em”. Nghe thế, một số Thiên thần trẻ đứng gần đó liền vổ tay hoan hô! « Im lặng! hãy hát tiếp đi!” vị Thiên thần lớn tuổi la lớn, và đưa vị thiên thần nhỏ ra một bên và nói nhỏ « Em chưa biết hết những gì đã xảy ra trong đêm nay tại Bê-lem cả. Em đã nắm vững hết mọi nỗi đau khổ của toàn thế nhân loại trong tay chưa?” Vị Thiên thân nhỏ bào chữa «Em không khẳng định là em hiểu hết tất cả mọi sự. Tuy nhiên em ghi nhận là có sự khác biệt giữa những điều chúng ta hát với những điều thực tế trên trái đất. Và sự khác biệt đó đối với em là quá lớn, em không sao chịu đựng lâu được sự căng thẳng đó”.
Vị Thiên thần lớn im lặng nhìn vị Thiên thần nhỏ một hồi lâu, rồi nói "Ðồng ý, em không chịu đựng được sự chia rẽ giữa trời và đất. Nhưng em hãy biết rằng trong đêm hôm nay tình trạng chia rẽ đó vừa được xóa bỏ. Hài Nhi vừa được sinh ra và đang nằm trong máng cỏ kia sẽ mang sự an hòa Thiên quốc của chúng ta xuống cho mọi người trên trái đất. Vì thế, chúng ta mới hát ca vui mừng, mặc dù đa số nhân loại chưa nghe nói tới và chưa hiểu được mầu nhiệm đó!” Nghe thế, vị Thiên thần nhỏ liền hí hửng nói "Nếu vậy, em xin vui mừng tiếp tục hát!”
Nhưng vị Thiên thần lớn liền lắc đầu "Không, em sẽ không còn tiếp tục hát nữa. Từ hôm nay trở đi, em sẽ mang Hài Nhi trong mang cỏ và sự bình an của Thiên Chúa đến cho nhân loại. Ngày đêm em sẽ không được mỏi mệt đến với họ, gõ vào cửa nhà họ và đặt để vào con tim họ sự khao khát tìm đến với Hài Nhi. Em phải luôn luôn có mặt trong các buổi tọa đàm, các cuộc bàn hỏi khó khăn vất vã của họ và trong những lúc họ cãi cọ la lối với nhau thì đừng vội đưa ra ý kiến này ý kiến nọ! Họ sẽ đuổi em ra khỏi nhà, nhưng em cứ kiên nhẫn ngồi chờ trước cửa nhà họ. Em phải che chở những kẻ vô tội dưới đôi cánh của em và mang những tiếng khóc than của bao người bất hạnh về Thiên Quốc cho chúng ta. Em sẽ không còn hát ca gì nữa hết. Trái lại, em sẽ phải khóc than nhiều!”
Giữa những lời nói nghiêm trọng như thế, vị Thiên thần nhỏ trước hết hãy còn bé tí, nhưng rồi từ từ lớn và càng lớn lên, đến nỗi chính vị Thiên thần cũng không để ý. Thoạt đầu, vị Thiên thần không muốn nhận lãnh trách nhiệm khó khăn đó, nhưng các vị Thiên thần bạn khác nói "Anh cứ nhận sứ mệnh và lên đường xuống với nhân loại đi. Những lời ca của chúng tôi sẽ đồng hành với anh, để anh không bao giờ quên được nữa là trong đêm nay bình an chân thật đã được ban cho thế gian!”
Thế là vị Thiên thần hòa bình của chúng ta từ giã Thiên cung, đi khắp nơi trên thế giới và bắt đầu ra tay hoạt động. Từ đó vị Thiên thần đã thi hành sứ mệnh của mình một cách thật tuyệt vời Ngài đã lo lắng cho niềm khát vọng hòa bình không còn bao giờ phai nhạt nữa, trái lại càng ngày càng phát triển mạnh mẽ, đến nỗi tất cả mọi người đều nỗ lực tìm kiếm vả kiến tạo hòa bình. Những ai mở cửa lòng cho vị Thiên thần hòa bình và thành tâm cộng tác với ngài, liền bổng nhiên nghe tự đáy lòng mình một bản hòa ca du dương huyền diệu của các Thiên thần, động viên họ và làm cho họ thêm can đảm trong việc hiện thực công cuộc kiến tạo một nền hòa hòa bình chân chính giữa tất cả mọi người!”
(Trích trong D. Steinwede, Vom Engel, der nicht singen sollte. Die schönsten Weihnachtsgeschichten, Gütersloher Verlagshaus Gerd Mohn 1990.)
Anh chị em thân mến, vị Thiên thần nhỏ từ chối tiếp tục hát. Hòa bình dưới thế - điều đó có đúng chăng? Hòa bình dưới thế! Ðã hơn 2000 năm trôi qua sau khi sứ điệp hòa bình được loan báo khắp nơi trên cùng cõi trái đất. Sứ điệp đó đã mang lại được những gì? Sứ điệp đó đã làm thay đổi được những gì? Phải chăng chính Giáo Hội đã được giao phó cho sứ điệp đó lại đã không phải thất vọng khi làm hết mọi nỗ lực, tìm hết mọi cách để xây dựng sự cảm thông giữa các dân tộc và kiến tạo một nền hòa bình chân chính trên thế giới? Vâng, trong khi Giáo Hội cùng với những người thiện tâm trên khắp thế giới mong mỏi và tìm kiếm hòa bình, thì chiến tranh tiếp tục bùng nổ khắp nơi, giết hại bao sinh linh vô tôi Sau cuộc nội chiến giữa các sắc dân ở Nam Tư củ, thì đến chiến tranh ở Ðông Ti-mor, ở Áp-ga-nít-tan, ở Irắc, ở Li-băng, v.v... Và đâu đâu chúng ta cũng chỉ thấy bất mãn, chia rẽ, cãi cọ, khủng bố! Ngay trong lúc nhân loại mừng lễ Giáng Sinh, lễ của hòa bình, thì khắp nơi trên thế giới hàng triệu người vẫn tiếp tục sống trong sự khốn cùng, với một mức độ không thể tưởng tượng được, hoàn toàn bất xứng với nhân phẩm con người! Còn chúng ta đang sống trong một đất nước hòa bình và có nền kinh tế phồn thịnh như CHLB Ðức giữa một thế giới nghèo nàn, cũng tương tự như sống trên một hòn đảo của các tiên nữ, chúng ta có nhận chân được rằng nền hòa bình và đời sống sung túc vật chất chúng ta đang thụ hưởng cũng chỉ là những món hàng dễ đổ vỡ không?
Hòa bình dưới thế? Thành thật mà nói, khi nhìn lại thực tại cụ thể của thế giới, chúng ta không được phép trách móc vị Thiên thần nhỏ khi ngài từ chối tiếp tục hát "bài ca hòa bình"!
Chưa lâu, có người nói với tôi „Nếu mỗi buổi tối khi con xem qua các tin tức về chiến tranh và những khủng bố vô nhân đạo xảy ra khắp nơi trên thế giới, nhiều lúc con đâm ra hoài nghi và tự hỏi Còn có Chúa nữa không?” Vị Thiên thần được gửi đến với nhân loại để nhắc nhủ họ luôn biết khao khát hòa bình. Ðó phải là một sứ mệnh gai góc! Chắc hẳn vị Thiên thần phải đối mặt với những cự tuyệt và chống đối! Bởi vì con người rất ngần ngại và đầy đắn đó đi trên con đường hòa bình. Hình như sự bất bình luôn đồn trú kín đáo trong mỗi người chúng ta. Chúng ta phải giải quyết thế nào với những tư tưởng hận thù, ghen ghét và chống đối? Chúng ta đã không thường gây ra sự bất hòa, làm thương tổn kẻ khác, để họ phải thất vọng, bất kiên nhẫn, gạt bỏ ý kiến kẻ khác cách bất công?
Hòa bình dưới thế! Ðó là cả một sứ mệnh khó khăn! Hãy bắt đầu kiến tạo hòa bình ngay từ nơi chúng ta. Hãy lấy cách thức và thái độ sống của Ðức Giêsu Na-da-rét làm chương trình sống của chúng ta! Ðức Giêsu đã không loại trừ ai. Cả khi người nghiêm khắc cảnh cáo họ, thẳng thắn chỉ trích những quan niệm sai lạc và cố chấp của họ, Người vẫn không bao giơ chủ ý bài trừ hay tẩy chay họ. Người chỉ muốn giúp đỡ họ. Ðức Giêsu nhìn con người như Thiên Chúa nhìn họ vậy. Người nhìn thấy những khả năng tốt lành trong họ, Người nhìn thấy những điều thiện hảo được tiềm tàng và dấu ẩn trong mỗi người. Vì thế Người đã quảng bá một bầu không khí an hòa và thân thiện. Nhưng việc bước theo Ðức Giêsu trên con đường hòa bình của Người? Ðó là cả một điều không dễ dàng đối với con người, vì con người thường quá phức tạp và khó khăn! Còn chính chúng ta? Làm thế nào để người ta có thể cầm cự được suốt cả một đời với bao thất vọng và bao chống đối được? Nhiều người trong chúng ta khi gặp phải một sự thử thách nặnng nề, bổng trở nên thất vọng, mất hết nghị lực và chỉ muốn buông xuôi Từ trong cuộc sống vợ chồng, cho đến công ăn việc làm và việc nuôi dạy con cái... và họ luôn đinh ninh rằng tất cả chỉ là điều vô ích khi còn tìm cách cứu vãn hoàn cảnh.
Sự bất ổn của cuộc sống trên trái đất có thể làm cho chúng ta bị khủng hoảng sâu xa. Cả tới sự bất mãn trong con người chúng ta. Nhiều người sống một cuộc sống bất khoan dung và bất hòa giải - không những với người khác – nhưng cả với chính mình, với lịch trình cuộc sống của họ và với định mệnh của họ. Dĩ nhiên có những lịch sử cuộc đời và những số phận thật hẩm hiu chua xót, xô đẩy những người trong cuộc rơi vào con đường cùng. Khiến họ mất hết can đảm và nghị lực. Bấy giờ một câu hỏi thường được đặt ra Còn có Chúa nữa chăng? Hay một cảm nghĩ đầy thất vọng chua cay Nếu như còn có Chúa, thì tại sao tôi ra nông nổi này? Thiên Chúa đã bỏ tôi. Tôi cảm thấy Thiên Chúa đã bỏ rơi tôi!
Chúng ta biết rằng, Ðức Giêsu, Hài Nhi trong máng cỏ, đã chết như một người thanh niên trưởng thành, với khoảng độ 33 tuổi. Và Phúc Âm thánh Mác-cô đã tường thuật cho chúng ta rằng trong cảnh cùng khổ của thập giá, Người đã lớn tiếng kêu lên "Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ rơi con?" (Mc 15,34). Ðiều đó muốn nói lên rằng cả Ðức Giêsu cũng không được chuẩn chước khỏi phải thất vọng trước sự độc ác và sự hẹp hòi cố chấp của con người cũng như trước những thách đố quá to lớn của cuộc sống và trước sự im lặng làm ngơ của Thiên Chúa! Ở đây chúng ta đã động chạm đến chính mầu nhiệm trọng yếu nhất của niềm tin Kitô giáo mà không một trí óc nhân loại nào có thể hiểu thấu được cũng như không một ngôn ngữ nhân loại nào có thể diễn tả hết Ðức Giêsu là Ðấng Thiên Sai, là Con Một Thiên Chúa, chính Người đã phải gánh chịu cảnh sống cơ hàn, sự sợ hãi, sự hoài nghi của con người, Người đã sống một cuộc sống hoàn toàn như chúng ta! Một Thiên Chúa toàn năng đã trở thành một hài nhi non nớt yếu hèn! Một Thiên Chúa toàn năng đã trở thành một phàm nhân bất lực, hấp hối như một tử tội trên thập giá trong sự quên lảng! Thật trí năng nhân loại hoàn toàn bất lực, không sao hiểu thấu, ngôn ngữ nhân loại không sao cắt nghĩa nổi. Trong điểm này, chúng ta chỉ có thể nói, hoặc Tất cả những điều đó là một sự điên cuồng, không còn nằm trong tầm kiểm soát của trí năng chúng ta; hoặc Chúng ta bắt đầu cảm nhận được rằng tất cả những điều đó là sức mạnh đem lại sự an ủi vô tận. Ðúng vậy, ngay khi chúng ta kiệt lực, bị ngã quị, mọi hy vọng đều tiêu tan và đang trên miệng vực thẳm của hoài nghi chán chường, thì cũng chính lúc đó Người hiện diện một cách đặc biệt bên ta, cũng chính lúc đó chúng ta vẫn có thể hy vọng cả những gì không còn có thể hy vọng được nữa! Chúng ta hy vọng rằng Thiên Chúa luôn gần gủi bên ta những khi chúng ta đang ngụp lặn dưới hố sâu của cuộc đời, hầu để giải cứu ta, và những khi chúng ta hoàn toàn mất hết đất đứng, sau cùng là chính ngay trong sự chết, thì Thiên Chúa vẫn một mực trung thành.
Nếu chúng ta đón nhận sứ điệp đó, tức chân lý Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện bên ta, chúng ta sẽ có thể vững bước trên con đường cuộc đời đầy chông gai vất vả của mình. Một khi xác tín được rằng Thiên Chúa luôn hiện diện bên tôi, tôi sẽ có thêm can đảm và nghị lực, để không bao giờ hết khao khát sự công bằng và nền hòa bình trong xã hội. Không, tôi không chỉ khao khát, nhưng còn tìm mọi cách để kiến tạo sự công bằng và nền hòa bình! Ðồng thời cũng biết tha thứ cho kẻ khác, như Người đã làm, cả khi tôi cảm thấy quá khó khăn phải làm điều đó; biết chấp nhận người khác với tất cả những ưu khuyết điểm, với tất cả những sở trường sở đoản của họ, như Người đã làm, chứ không kỳ thị hay có định kiến với bất cứ ai.
Và một khi chúng ta sống được như vậy, một khi chúng ta hiện thực được tất cả những điều đó, bấy giờ „hòa bình dưới thế”không còn là một mơ ước, nhưng là một thực tại của cuộc sống!
LM Nguyễn Hữu Thy (Vietcatholic News)

Ông bà Noel xóm tôi

Cứ mỗi dịp Giáng sinh là lũ trẻ trong xóm của tôi nô nức đến nhà ông bà Noel để vui chơi. Thật ra không chỉ mùa Giáng sinh mà những ngày khác trong năm, lũ trẻ vẫn thường đến nhà ông bà Noel để tắm hồ bơi, được bà Noel dẫn đi chơi sở thú, khu du lịch Bình Quới, thác Giang Điền... Đêm Giáng sinh năm nào trẻ em trong xóm cũng ăn uống thật no tại sân nhà ông bà Noel và nhận những món quà mang về.
Ông Noel là một chuyên viên tài chính người Anh đã về hưu rất yêu VN và quyết định sống quãng đời còn lại của mình tại VN - "quê hương thứ hai" của ông. Ông tên Patrick nên lũ trẻ thường gọi thân mật là "ông Chích". Ông Chích đặc biệt yêu quí trẻ em, quan niệm của ông là "trẻ em không có lỗi gì để phải chịu cực khổ hết". Ông làm từ thiện bằng tiền lương hưu của mình. Cho trẻ em trong xóm đi chơi ở đâu, ông đều rửa hình chụp kỷ niệm chuyến đi tặng chúng. Ông đặt điều kiện được đi chơi rất đơn giản: lũ trẻ phải chăm học và học giỏi.
Bà Noel là một phụ nữ VN, dù khác biệt ngôn ngữ và văn hóa với chồng nhưng cả hai lại vun đắp tình yêu bằng một điểm chung: cùng yêu quí lẽ phải và làm việc thiện. Bà con trong xóm ai túng tiền, hết gạo, bệnh tật... thường gõ cửa nhà ông bà Noel để nhận sự trợ giúp "không cần đền đáp". Nhiều năm trước đây khi cả xóm chưa nhà nào có nước máy để dùng, ông bà Noel cho mọi người đến nhà hứng nước máy để dùng đảm bảo vệ sinh so với nước giếng ô nhiễm.
Thời trẻ bà Noel có cuộc sống túng thiếu, có lần lâm bệnh xuất huyết dạ dày nặng và nằm trong bệnh viện những tưởng chờ chết vì không còn tiền mua thuốc. Khi ấy có một người tốt bụng tặng bà một lọ thuốc và mật ong để qua cơn hiểm nghèo. Cảm động trước tình thương của người xa lạ, bà lên tinh thần hẳn: "Tại sao lại phải chết? Chết đi ai nuôi con gái mình? Mình phải sống và vươn lên, ngày mai sẽ tốt đẹp hơn". Bà Noel đã được giúp đỡ và tâm nguyện sẽ giúp lại mọi người. Trong xóm có bé Rớt sinh ra xương rất mềm, bà nấu cháo, chạy chữa thuốc uống hai năm liền cho bé để thoát khỏi bệnh bẩm sinh. Giờ đây bé Rớt đã cứng cáp khỏe mạnh như người thường.
Ông bà Noel từng đích thân ra Hà Nội chi hàng chục triệu đồng đóng viện phí, chạy chữa cho một cô gái không thân thuộc mổ tim thành công (trước đó cô có ý định tự tử vì không muốn bệnh tình của mình ảnh hưởng đến gia đình vốn khó khăn). Với nhiều thanh thiếu niên sau khi được ông bà Noel cứu giúp qua hoàn cảnh ngặt nghèo, đều được ông bà Noel giúp thêm bước nữa là cho tiền đi học nghề để có thể tự nuôi sống bản thân bằng sức lao động của họ. Đó mới là ước nguyện của ông bà Noel.
“Không có niềm vui nào lớn hơn là đem lại niềm vui cho người khác. Không có sự an ủi nào lớn hơn là đem lại chút an ủi với người khác” là thông điệp sống của ông bà Noel. Nghĩa cử của họ đáng quí nhưng lại thầm lặng. Ông bà Noel xóm tôi luôn kể về những người tốt thầm lặng khác trong xã hội mà họ quen biết trên bước đường làm việc thiện, như để bày tỏ với mọi người rằng lòng yêu thương luôn ở xung quanh chúng ta.

TRUNG KIÊN (TUỔITRẺ ONLINE)

Friday, December 22, 2006

ĐIỀU ƯỚC GIÁNG SINH KHÓ !!

Ngồi xuống chiếc ghế bành bằng da trong hành lang của một thương xá (Shopping mall) sang trọng, nhìn đồng hồ đã hơn một giờ trưa. – Chà! Thế là tôi đã đi sắm quà Giáng Sinh trong khu thương xá mênh mông hun hút này gần ba tiếng đồng hồ, đôi chân mỏi như thầm biết ơn, ngả người vào lưng ghế chính tôi cũng tự cám ơn mình đã “nghĩ ra” giây phút nghỉ ngơi kỳ thú này.Bây giờ mới có dịp nhìn ngắm, quan sát khung cảnh huy hoàng rực rỡ mà những nhà thương mại đã bỏ công ra trang hoàng trung tâm ba tầng lầu khổng lồ bằng hàng ngàn ngàn ngọn đèn muôn mầu, rải rác là những cây thông Giáng Sinh được trang điểm lộng lẫy và đẹp như mơ. Tuy vậy, cái “hồn” của thương xá vẫn là sự tấp nập của những người đi mua sắm như tôi. Tại Hoa Kỳ mỗi năm có chừng trên mười ngày lễ lớn: Ngày Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving), Ngày Lễ của Tình Yêu (Valentine’s Day), Ngày Của Mẹ (Mother’s Day), Ngày Của Bố (Father’s Day), Ngày Lễ Độc Lập (Independence Day) v…v. Nhưng Mùa Giáng Sinh đã vượt xa những ngày lễ trên, suốt một tháng trời trước ngày lễ, từ cơ quan Bưu điện đến các tiệm buôn bán lẻ, những nhà sản xuất, và nghành giao thông như hàng không, xe hàng, xe lửa v…v.. đều phải tăng cường thuê thêm nhân viên để cung ứng nhu cầu của mọi người trong dịp lễ. Cái đó nghĩ cũng dễ hiểu, ngày lễ của Tình Yêu thì chỉ mua quà cho người yêu, ngày Của Mẹ, của Bố chỉ mua quà cho mẹ, bố..nhưng Giáng Sinh là ngày lễ duy nhất được khắp nơi trên thế giới, từ những nước giầu có hùng mạnh đến các quốc gia nhỏ bé nghèo nàn trong rừng sâu, từ Âu sang Á từ Bắc xuống Nam, đâu cũng đều cùng đón mừng, và mọi người đều tặng quà cho “mọi người”: tặng bố mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm, người làm vườn cho mình, người phu đổ rác trong khu mình, bác đưa thư của xóm mình ở v…v.
Ngồi nghỉ chân nơi đây giữa một dòng người lườm lượp đi mua sắm, nhìn họ tôi thấy sự mệt nhọc của mấy giờ đi bộ như có cánh bay đi. Già có, trẻ có, người sang, người nghèo, đủ mọi sắc tộc, tất cả đều có chung một mục đích đẹp tuyệt, đó là “ tìm quà cho người mình yêu mến”, ai cũng khệ nệ dăm bẩy túi đồ, cười cười, nói nói, hoặc mệt phờ như tôi, nhưng chắc chắn trong lòng thì ấm và thơ thới.
Giữa lúc đang ngắm cảnh “ông đi qua bà đi lại” vui mắt này, tôi chợt im lặng chú tâm, vì từ trong hệ thống âm thanh của thương xá vang lên bản nhạc mà tôi ưa thích nhất đó là bài “Cậu Bé Đánh Trống” (The Little Drummer Boy của Davis-Onorati- Simeone)(1) Bản nhạc tưởng như một bài ca vui, nhưng theo tôi đó là một ca khúc đơn sơ tuyệt vời lột tả được tinh thần xuống thế của Chúa Hài Đồng, mỗi lần nghe là một lần nghẹn ngào trong tim:
…“Chúa Hài Đồng
Con là một Bé nghèo như Chúa
Con không có quà qúi giá mang đến tặng Chúa
Nhưng con có thể chơi trống để Chúa nghe không?
Mẹ Maria gật đầu.Con bò và con trừu thì giữ nhịp
Còn Bé chơi trống với hết cả tài nghệ cho Chúa nghe Pa-răm păm păm păm
Và rồi Chúa mỉm cười với Bé và cái trống của Bé.”
Chúa nằm trong máng cỏ nghèo nàn nơi một hang đá phong phanh trời đông giá. Tôi ngồi đây giữa một thương xá sang trọng, ấm cúng, nhộn nhịp, huy hoàng và như mọi người cùng nhau chi phí 10 tỉ Mỹ kim sắm quà. Thực ra chẳng có điều gì sai khuấy, vì làm điều tốt cho người thân yêu cũng là ý Chúa muốn.
Tôi lẩm cẩm tự hỏi, trong suốt cuộc đời cho đến hôm nay, không biết đã làm gì để Chúa “mỉm cười” chưa?! Tôi không có câu trả lời!
Nhưng ngay giờ phút này, tôi có một Điều Uớc Giáng Sinh cho chính mình, đó là cái “Mỉm Cười” mà cậu Bé đánh trống đã có.

Nguyễn Đức Cung

(1)THE LITTLE DRUMMER BOY

(Davis-Onorati-Simeone)

Come they told me (pa-rum pum pum pum) / A newborn King to see (pa-rum pum pum pum) / Our finest gifts we bring pa-rum pum pum pum / To lay before the King / So to honor Him (pa-rum pum pum pum) / when we come / Little Baby (pa-rum pum pum pum) / I am a poor boy too (pa-rum pum pum pum) / I have no gift to bring (pa-rum pum pum pum) / that's fit to give our King / Shall I play for You? (pa-rum pum pum pum) / On my drum / Mary nodded (pa-rum pum pum pum) / The ox and lamb kept time (pa-rum pum pum pum) / I played my drum for Him (pa-rum pum pum pum) / I played my best for Him / Then He smiled at me (pa-rum pum pum pum) /Me and my drum

Những suy tư của ĐTC vào lúc sắp kết thúc mùa Vọng.

Ngày 20 tháng 12 năm 2006, là thứ Tư cuối cùng của Mùa Vọng năm 2006. Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã dành trọn bài huấn đức của ngài trong Buổi Tiếp Kiến Chung, để chia sẻ những suy tư của ngài vào lúc sắp kết thúc Mùa Vọng. Kính mời quý vị và các bạn theo dõi những suy tư này:
Anh chị em thân mến,

"Chúa gần bên: anh chị em hãy đến, và chúng ta cùng nhau thờ lạy Ngài!" Với lời này, Phụng Vụ mời gọi chúng ta, trong những ngày cuối cùng của Mùa Vọng, hãy tiến lại gần bên hang đá Bêlem, nơi đã được thực hiện biến cố phi thường thay đổi dòng lịch sử: đó là biến cố Ðấng Cứu Thế giáng sinh. Trong đêm giáng sinh, chúng ta sẽ dừng lại, một lần nữa, với tâm hồn đầy khâm phục trước máng cỏ để chiêm ngắm "Ngôi Lời Thiên Chúa làm Người". Những tâm tình vui mừng và biết ơn, như mọi năm, lại xuất hiện trong chúng ta, khi lắng nghe những bài ca Giáng Sinh bằng biết bao ngôn ngữ hát mừng biến cố lạ lùng ngọai thường. Ðấng Tạo Dựng vũ trụ đã đến vì tình thương để cư ngụ giữa loài người. Trong thư gởi giáo đoàn Philiphê, Thánh Phaolô quả quyết rằng Chúa Kitô "dù là Thiên Chúa, nhưng không giữ lấy thân phận ngang hàng Thiên Chúa; mà ngược lại đã cởi bỏ chính mình, mặc lấy thân phận tôi tớ và trở nên giống với con người chúng ta" (2,6). Thánh Phaolô còn viết thêm rằng Người xuất hiện trong dung mạo con người, trong sự khiêm tốn tự hạ. Trong Lễ Giáng Sinh thánh, chúng ta sẽ sống lại biến cố thực hiện mầu nhiệm cao cả này, mầu nhiệm của ân sủng và của lòng nhân từ.

Thánh Phaolô còn nói thêm như sau: "Khi thời viên mãn đến, Thiên Chúa đã sai đến Con Một Ngài, sinh ra dưới lề luật, để chuộc lại những ai sống dưới lề luật, ngõ hầu chúng ta được Thiên Chúa Cha nhận làm con cái Ngài." (Gal 4,4-5). Thật vậy, từ bao thế kỷ, Dân được Thiên Chúa Tuyển chọn chờ đợi Ðấng Thiên Sai, nhưng họ tưởng nghĩ Ðấng Thiên Sai đó như là Ðấng quyền năng và là kẻ chiến thắng, đủ sức giải phóng dân chúng thoát khỏi cảnh áp bức của ngoại bang. Nhưng ngược lại, Ðấng Cứu Thế giáng sinh trong thinh lặng và trong sự nghèo cùng tột độ. Người đến như là ánh sáng để chiếu soi mọi người --- tác giả phúc âm theo thánh Gioan đã ghi nhận như vậy --- "nhưng những người thân không nhìn nhận Người" (Gn 1.9.11). Tuy nhiên Tông Ðồ Gioan nói thêm: "những ai chấp nhận Người, thì Người ban cho họ quyền trở nên những con cái của Thiên Chúa" (Gn 1, 12). Ánh sáng được hứa trước, nay chiếu toả trong tâm hồn của những ai kiên trì trong thái dộ chờ đợi tỉnh thức và bằng việc làm.

Phụng vụ Mùa Vọng khuyến khích chúng ta sống thanh đạm và tỉnh thức, để không làm cho mình trở nên nặng nề vì những tội lỗi và vì những bận tâm thái quá về việc thế trần. Chình nhờ tỉnh thức và cầu nguyện, mà chúng ta có thể nhìn nhận và tiếp đón ánh quang giáng sinh của Chúa Kitô. Thánh Massimo thành Torinô, giám mục sống thời cuối thế kỷ thứ IV và đầu thế kỷ V, trong một trong số các bài giảng của ngài, đã nói như sau: "Thời gian cảnh báo cho chúng ta rằng lễ Giáng Sinh của Chúa Kitô đã gần bên. Thế gian cùng với những lo âu của nó, nói lên rằng có điều gì đó sắp xảy ra để canh tân thế gian; với thái dộ nôn nóng chờ đợi, thế gian ước mong ánh sáng của mặt trời chói sáng được chiếu toả trong bóng tối... Sự chờ đợi của tạo vật thuyết phục cả chúng ta đây hãy chờ đợi mặt trời mới, là Chúa Kitô, mọc lên (disc. 61a,1-3). Chính tạo vật hướng dẫn chúng ta đến việc khám phá và nhìn nhận Ðấng phải đến.

Nhưng câu hỏi được đặt ra là: nhân lọai của thời đại chúng ta đây có còn chờ Ðấng Cứu Thế hay không? Người ta có cảm tưởng rằng nhiều người nhìn Thiên Chúa như là Ðấng xa lạ với những quan tâm riêng của họ. Dường như họ không còn cần đến Thiên Chúa nữa! Họ sống dường như thể Ngài không hiện hữu, hoặc tệ hơn, dường như thể Ngài là trở ngại cần được cắt bỏ đi, để con người thực hiện chính mình. Và cả giữa những anh chị em tín hữu --- chúng ta biết chắc chắn điểm này --- có một số người bị thu hút bởi những ảo tưởng và bị lo ra bởi những giáo lý ngoại lai, đề nghị những con đường tắt tạm bợ để được hạnh phúc. Nhưng dù với những mâu thuẫn, những lo âu và những thảm kịch của mình, --- và cả nhờ qua những điều đó, --- mà nhân loại ngày nay đi tìm con đường canh tân, con đường cứu rỗi, đi tìm Ðấng Cứu Thế và chờ đợi, cho dù không ý thức đủ, Ðấng cứu thế ngự đến để canh tân thế giới và đời sống chúng ta, chờ đợi Chúa Kitô, Ðấng cứu độ duy nhất của con người và của trọn cả con người.

Chắc rằng những tiên tri giả tiếp tục đề nghị "sự cứu rỗi" với "giá rẻ", một sự cứu rỗi cuối cùng dẫn đến những thất vọng. Lịch sử của 50 năm gần đây cho chúng ta thấy con người đang đi tìm "Ðấng Cứu Thế" với giá rẻ này, và cho chúng ta thấy rõ tất cả những thất vọng phát sinh từ đó. Bằng chứng tá đời sống, những người kitô chúng ta có trách vụ phổ biến sự thật của lễ Giáng Sinh mà Chúa Kitô mang đến cho từng người thiện chí nam nữ. Khi sinh ra trong sự nghèo cùng của hang dá, Chúa Giêsu đến cống hiến cho tất cả mọi người niềm vui và hoà bình có thể thoả mãn sự chờ đợi của tâm hồn con người.

Nhưng thử hỏi phải làm sao để chuẩn bị chúng ta biết mở rộng tâm hồn rước Chúa ngự đến? Thái độ thiêng liêng của việc chờ đợi trong tỉnh thức và cầu nguyện là đặc điểm căn bản của người kitô trong Mùa Vọng. Ðây là thái độ nổi bật của những nhân vật thời đó: của Ông Zaccaria và Bà Elisabeth, của các mục đồng, của các Ðạo Sĩ, của người dân đơn sơ và khiêm tốn. Nhất là thái độ chờ đợi của Mẹ Maria và thánh Giuse. Hơn mọi người khác, Mẹ Maria và thánh Giuse đã đích thân cảm nghiệm những tâm tình lo lắng và run sợ đối với Con Trẻ sắp được sinh ra. Thật không khó để nghĩ ra hai vị đã trải qua những ngày cuối cùng như thế nào, trong khi chờ đợi được ôm con trẻ mới sinh vào lòng. Ước chi thái độ của hai đấng cũng là thái độ của chúng ta, thưa anh chị em thân mến! Về điểm này, chúng ta hãy lắng nghe lời khuyến khích của thánh Massimo, giám mục Torino, vị thánh mà chúng ta vừa nhắc đến trên đây. Ngài đã khuyến khích như sau: "Trong khi chuẩn bị đón mừng lễ Giáng Sinh của Chúa, chúng ta hãy mặc lại y phục tinh sạch, không tì ố. Tôi muốn nói đến y phục của linh hồn, chứ không nói về y phục của thân xác. Chúng ta hãy mặc lấy không phải những y phục bằng gấm lụa, nhưng bằng những việc lành thánh! Những y phục sang trọng có thể che phủ các phần thân thể, nhưng không làm đẹp lương tâm" (ibidem). Khi sinh ra giữa chúng ta, ước gì Chúa Giêsu Hài Ðồng không gặp thấy chúng ta đang lo ra hoặc thuần tuý lo làm đẹp nhà ở bằng những ánh đèn. Ðúng hơn, chúng ta hãy dọn trong tâm hồn và trong gia đình một chỗ xứng đáng, nơi Chúa Giêsu Hài Ðồng cảm thấy mình được đón tiếp với đức tin và tình thương!

Nguyện xin Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria và thánh Giuse giúp chúng ta sống mầu nhiệm Giáng Sinh với sự khâm phục mới và với sự an bình. Với những tâm tình vừa nói, tôi muốn nói lên những lời cầu chúc nồng nhiệt nhất cho tất cả anh chị em, đang hiện diện nơi đây, và cho những nguời thân của anh chị em, nhất là cho những ai gặp khó khăn hay đang đau khổ trong thể xác cũng như trong tinh thần, được hưởng một Lễ Giáng Sinh thánh thiện và hạnh phúc. Cầu chúc tất cả anh chị em Lễ Giáng Sinh an lành.

Radio Veritas Asia
LM. Đặng Thế Dũng (Vietcatholic News)

Chúa Nhật 4 Mùa Vọng - 4th Sunday of Advent (Luca 1:39-45)


Bài Đọc I: Mic 5:1-4 II: Heb 10:5-10
Phúc Âm Luca 1:39-45
(39) Hồi ấy, bà Maria lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. (40) Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét. (41) Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được trần đầy Thánh Thần, (42) liền kêu lớn tiếng và nói rằng: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. (43) Bởi đâu tôi được phúc này là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy? (44) Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. (45) Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em."
Chi Tiết Hay
- Đây là đoạn Tin Mừng Đức Mẹ Maria viếng thăm bà Elizabeth, trước đoạn này là hai sự việc truyền tin: Thiên Thần truyền tin cho ông Dacaria về sự sinh hạ Gioan Tẩy Giả khi bà Elizabeth đã về già và việc truyền tin cùng trinh nữ Maria về sự giáng sinh của Đức Giêsu.
- (c.39) Chuyến đi từ Galilê nơi Maria ở tới làng ở Giudêa nơi Elizabeth ở cũng mất tới bốn ngày đường. Một trinh nữ mười bốn tuổi như Maria mà đi xa một mình như vậy trong một xã hội trọng nam giới, thì thế nào cũng bị mang tiếng không tốt và không lương thiện.
- Có lẽ Luca không có ý định giới thiệu Maria như một biểu tượng của một người làm việc bác ái, bởi vì trong câu 56 tiếp theo sau Maria đã trở về nhà ngay lúc mà Elizabeth cần nhất là lúc sanh đẻ.
- Ý định của Luca có tính cách văn chương và thần học, ông đem hai người sắp làm mẹ lại với nhau để cho thấy cả hai cùng nhận ra và ngợi khen Thiên Chúa sống động trong đời sống của mỗi người.
- (v.41) Gioan Tẩy Giả nhảy mừng trong bào thai của bà Elizabeth gợi tới sự cựa quậy của Esau và Jacob trong bụng bà Rebekah như trong Cựu Ước, Sách Sáng Thế 25:22, đây là điềm báo trước thân phận của hai đứa trẻ.
- (v.43) Ngay cả trước khi chào đời, Đức Giêsu đã được gọi là Đấng Mesia, một danh hiệu gắn liền với sự sống lại.
Một Điểm Chính: Mẹ Maria là người Kitô hữu đầu tiên trong Tân Ước bởi vì Mẹ đã tin vào lời Chúa hứa, một lòng tin hoàn toàn vào Chúa. Cũng như Mẹ Maria, phúc thay cho những ai tin tưởng vào Chúa.
Suy Niệm
1. Hồi tưởng lại một kỵ niệm vui mừng và hân hoan khi Chúa là một phần trong đời sống của bạn. So sánh kỵ niệm này với niềm vui và hãnh diện của một người sắp làm mẹ khi đứa con đá trong bụng. Bạn có cùng niềm hân hoan như Mẹ Maria và bà Elizabeth khi có Chúa ở cùng không?
2. Đọc kinh Kính Mừng thật chậm rãi từng chữ một và tưởng tượng bạn là bà Elizabeth đang đón chào Maria còn rất trẻ. Bạn thấy gì trên gương mặt, trên cử chỉ của Mariả Bạn sẽ thốt lên những lời gì?
3. Biết bao người trên thế giới cô đơn, họ cần người để trò chuyện. Bạn có khi nào thăm viếng nhà thương, nhà dưỡng lão hay nhà tù chưa? Khi thăm viếng một người bạn, một người bà con, bạn thường có ý gì?
Theo ĐỒNGHÀNH Org

---------------------------------------------------
4th Sunday of Advent
Reading I: Mic 5:1-4 II: Heb 10:5-10
Gospel Luke 1:39-45
(39) In those days Mary arose and went with haste into the hill country, to a city of Judah, (40) and she entered the house of Zechari'ah and greeted Elizabeth. (41) And when Elizabeth heard the greeting of Mary, the babe leaped in her womb; and Elizabeth was filled with the Holy Spirit (42) and she exclaimed with a loud cry, "Blessed are you among women, and blessed is the fruit of your womb! (43) And why is this granted me, that the mother of my Lord should come to me? (44) For behold, when the voice of your greeting came to my ears, the babe in my womb leaped for joy. (45) And blessed is she who believed that there would be a fulfilment of what was spoken to her from the Lord."
Interesting Details
- This passage is the story of visitation, which is preceded by two annunciations: the annunciation to Zechariah of the birth of John the Baptist by the aged Elizabeth and the annunciation of the birth of Jesus to Mary a virgin mother.
- (v.39) The trip from Galilee where Mary lived to a village in Judea where her relative Elizabeth lived would take four days of traveling. If a fourteen-year-old Jewish virgin girl like Mary made that trip alone in the male dominated society, she would be subject to charges of shameful intentions and misconduct.
- Luke possibly did not intent to present Mary as a model of charity because in v.56 Mary departed from Elizabeth at the moment of her greatest need, the childbirth.
- Luke's intent is literary and theological, he brings together two mothers-to-be to show how both recognize and praise the God who is active in their lives.
- (v.41) The "leaping" of John in Elizabeth's womb alludes to the leaping of Esau and Jacob in Rebekah's womb (Gen 25:22), which foretold their later destinies.
- (v.43) Even before his birth, Jesus is first identified as "Lord," which is properly used as a resurrection title.
One Main Point: Mary is the first Christian in the New Testament because she believed in the promises that God made to her, she has total trust in God. Like Mary, blessed are those who believe in God's promises.
Reflections
1. Recall a moment of joy and happiness when God is part of your life. Compare this moment to the joy and pride of a mother-to-be when she experiences baby kicks in her womb. Can you feel the exultation of Mary and Elizabeth?
2. Slowly recite the "Hail Mary" word by word, and imagine that you were Elizabeth and you are greeting young Mary. What do you see in her face, in her gesture? What will you say?
3. Many people in this world are lonely; they need someone to talk to. Do you ever visit those in hospital, in nursing home or in prison? If you do visit a friend or a relative, what is your intention?
By DONGHANH Org

Thursday, December 21, 2006

'Nhà Smith' đón Noel độc đáo

Mùa đông này, cặp tình nhân vàng của Hollywood Angelina Jolie và Brad Pitt đang lên kế hoạch tổ chức lễ kỷ niệm Giáng sinh 3 lần với các con của họ. Đại gia đình Smith sẽ đón Giáng sinh theo những cách thức và truyền thống rất khác nhau.
Rất nhiều lần trước đây, Brangelina đã tuyên bố, họ không muốn cuộc sống xa hoa ở Hollywood ảnh hưởng tới tính cách lũ trẻ. Cặp cha mẹ tuyệt vời này mong muốn các bé Maddox và Zahara luôn nhớ về cội nguồn nơi chúng đã sinh ra. Vì vậy, để bản sắc, truyền thống văn hoá của Campuchia và Ethiopia luôn sống trong tâm hồn bọn trẻ, Giáng sinh này, nhà Smiths sẽ tới 3 nơi khác nhau. Bé Maddox 5 tuổi sinh ra tại Campuchia, còn quê hương của bé Zahara gần 2 tuổi là Ethiopia.
Brad và các em nhỏ ở trung tâm chăm sóc và điều trị cho trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS Maddox Chivan ở Campuchia.
Theo Wenn, Angie cho biết: "Zahara sẽ kỷ niệm lễ Giáng sinh vào ngày 8/1. Còn Maddox, thằng bé sẽ đón các lễ hội theo đạo Phật. Chúng tôi tham gia cùng lũ trẻ".
Mặt khác, đại gia đình Smith, trong đó có baby Shiloh hơn 7 tháng tuổi cũng kỷ niệm Giáng sinh theo truyền thống của người Mỹ với rất nhiều đồ chơi và thịt gà tây.
Đầu tuần vừa rồi, tờ Digital Spy đưa tin Jolie-Pitt đang "lăm le" ý định giảm bớt hoặc từ bỏ hẳn nghiệp diễn xuất, để tập trung toàn bộ tâm trí cho gia đình. Angie khẳng định cô và Pitt không muốn là cặp cha mẹ "nửa vời".
Angelina muốn cô và Pitt sẽ ít đóng phim hơn để dành thời gian cho gia đình.
"Tôi rất mong rằng, cả gia đình sẽ ở bên nhau nhiều hơn, và chúng tôi sẽ ít đóng phim hơn. Có một điều chắc chắn là Brad và tôi sẽ không nuôi con ở Hollywood. Lũ trẻ sẽ không sống dập khuôn mỗi ngày, mà chúng được du lịch vòng quanh thế giới, học và làm những điều có ý nghĩa", Angelina tâm sự trong buổi trò chuyện với Larry King.

Nhật Thu (NGOISAO NET)

Wednesday, December 20, 2006

HƠI ẤM NOEL CHO BỆNH NHÂN PHONG CÙI CẨM THỦY- THANH HÓA

Trong khi mọi người, mọi nhà đang nao nức chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, với không gian vui tươi, rộn ràng, đầy màu sắc tươi đẹp. Thì trong âm thầm, lặng lẽ, có những con người vẫn lầm lũi với cuộc sống không may của mình, đó là những bệnh nhân phong cùi với thân thể không còn nguyên vẹn. Người thì mất hết cả đôi tay, người thì lại mất đôi chân, có người thì vừa bị hư hoại cả tay lẫn chân, thế nhưng họ vẫn nhẫn nại với cuộc sống, với con người. Đó là những bệnh nhân thuộc trại phong Cẩm Thủy- Thanh Hóa.

Trại phong Cẩm Thủy nằm vể phía Tây Bắc Tỉnh Thanh Hóa, cách Tòa Giám Mục khoảng trên 80km, thuộc huyện Cẩm Thủy. Có 35 bệnh nhân đã tạm thời lành lặn, nhưng vẫn phải uống thuốc thường xuyên. Tại đây, có một đội ngũ Y, Bác Sĩ khoảng 8 người luôn túc trực để khám chữa bệnh cho họ, không chỉ là bệnh phong cùi, mà cả những căn bệnh khác nữa. Những bệnh nhân ở đây, tuy không còn bị hành hạ bởi căn bệnh quái ác đó nữa, nhưng họ đã mất đi những phần chi thể cần thiết để làm ăn sinh sống, và cả khuôn mặt của họ cũng đã bị biến dạng trông thật đáng thương. Có người lập gia đình, nhưng có người lại sống độc thân. Và nhiều khi trong một mái nhà lại có tới 3 bệnh nhân nên đời sống của họ thật khó khăn. Họ làm vườn, đào ao nuôi cá, bữa cơm bữa cháo đắp đổi qua ngày. Họ không theo đạo nào nên không có những sinh hoạt tôn giáo, và cứ thế, họ quây quần bên nhau trong cuộc sống có thể nói là đơn điệu.

Nhưng hôm nay, ngày 15.12.2006, khuôn viên của họ bỗng nhộn nhịp khác thường khi có phái đoàn của Giáo phận Thanh Hóa đến chia sẻ niềm vui Giáng sinh. Phái đoàn có khoảng 50 người gồm Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Cha Phaolô Trần Văn Hiền -Hạt Trưởng Hạt Sông Mã, hơn 20 Linh mục, các Nữ tu, Chủng sinh, Ban Hành Giáo cùng với Giới trẻ Giáo xứ Phong Ý và Tân Hải, ngoài ra còn có các nhà tài trợ (tư nhân) thuộc Giáo phận.


Khoảng 13g, phái đoàn đến trại, các bệnh nhân đã có mặt đầy đủ tại hội trường. Đức Cha Giuse đã chia sẻ với các bệnh nhân về sứ điệp của Năm Sống Đạo là yêu thương, phục vụ và ngài khẳng định “các bạn là hình ảnh, là đối tượng số 1 của Tin Mừng”. Ban Giám Đốc trại phong đã ngõ lời cám ơn phái đoàn và bày tỏ mong ước được Đức Cha, quý Cha, quý tu sĩ nam nữ và các ân nhân năng đến thăm viếng, an ủi, chia sẻ với bà con.


Phái đoàn đã gởi đến từng người trong trại phong, kể cả các Y, Bác sĩ và thân nhân của người bệnh những món quà gói ghém tình bác ái yêu thương của Kitô giáo. Ngoài một gói nhu yếu phẩm gồm : gạo, đường sữa, bột ngọt, kẹo bánh, cá khô, nước mắm... Mỗi người còn nhần được một bì thư tiền.


Nhìn những khuôn mặt cằn cỗi do cơn bệnh vui hẳn lên, những người hiện diện thấy cảm động vì hiểu rằng mình đã đem đến cho họ niềm vui, dù chỉ là nhỏ nhoi, nhưng vẫn rất cần thiết để họ có thể chắc chắn rằng, cuộc sống của họ, bản thân của họ vẫn có một giá trị nhất định nào đó chứ không phải là thứ đáng bị bỏ đi.


“Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”(Lc 12,49), đó là khát vọng của Đấng Cứu Thế, Đấng mà chúng ta đang mong đợi để mừng kỷ niệm ngày Ngài giáng thế mang lại ơn cứu rỗi cho hết mọi người, chẳng trừ ai, đặc biệt là những người bất hạnh. Đấng mà mỗi người chúng ta, những môn đệ của Ngài, những người con của Ngài, có nhiệm vụ hoàn thành nguyện vọng ấy bằng sự sẻ chia tình thương chân thành cho những người khổ đau phần hồn, phần xác. Để niềm vui trong khi chờ đợi Chúa đến được tràn trào trong tâm hồn của chúng ta cũng như trong cuộc sống của những con người khốn khổ.


Hương Đăng (Vietcatholic News)

Vài nét về thành phố Bethlehem nơi Ngôi Hai xuống thế làm người

Bethlehem, hay Bêlem (Tiếng Ả rập بيت لحم, Tiếng Hêbrơ: בית לחם, Tiếng Hy Lạp: Βηθλεέμ) có nghĩa là ‘nhà bánh’, là một thành phố nằm ở Tây Ngạn sông Jordan, cách Giêrusalem 10 km về phía Nam. Thành phố Bethlehem nằm ở độ cao 765 m trên mặt biển, tức là cao hơn Giêrusalem 30m.

Bêlem là thành phố có ý nghĩa quan trọng đối với Kitô Giáo vì đây chính là nơi Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Đây cũng là nơi cộng đoàn Công Giáo tại Thánh Địa tập trung đông đảo nhất. Thành phố này cũng có ý nghĩa đối với Do Thái Giáo vì ở ngoại ô thành phố có mộ bà Rachel, là vợ ông Giacóp, người đã qua đời khi sinh BenGiamin.

Thành phố Bêlem cũng bao gồm hai thị trấn nhỏ là Beit Jala và Beit Sahour. Beit Jala là nơi tập trung các cơ sở giáo dục Kitô Giáo như trường thần học Chính Thống Giáo Nga, chủng viện Công Giáo Nghi Lễ La Tinh, trường đại học Talitha Kumi của Tin Lành Luther. Beit Sahour là nơi theo truyền thống Thiên Thần đã hiện ra báo cho các mục đồng Chúa đã xuống thế làm người.


Trung tâm của thành phố Bêlem là nhà thờ Giáng Sinh được đại đế Constantine (272-337) xây dựng vào năm 330 trên hang đá nơi Chúa giáng sinh. Đây có lẽ là ngôi nhà thờ cổ nhất trên thế giới mà vẫn còn tồn tại cho đến nay. Gần đó, là trường Đại Học Bethlehem của Giáo Hội Công Giáo.


Thành phố Bêlem trong Thánh Kinh:

Thành phố Bêlem thuộc miền Giuđa, đầu tiên được gọi là Ephrath (St 35:16, 19; 48:7; Ruth 4:11). Nó cũng còn được gọi là Bethlehem Ephratah (Micah 5:2), Bethlehemjudah (1 Sm. 17:12), và "thành vua David" (Lc 2:4).


Thánh Kinh nhắc đến thành phố này lần đầu như là nơi chôn cất bà Rachel "Phần cha, khi từ Pátđan về, cha đã mất bà Rachel, trong đất Canaan, khi còn cách Épratha một quãng đường; cha đã chôn người tại đó, trên đường đi Épratha, tức là Bêlem" (St 48:7)


Đây cũng là bối cảnh cuộc trở về của bà Naomi và con dâu của bà là bà Rút "Thế là từ cánh đồng Môáp, bà Naomi trở về cùng với con dâu người Môáp là Rút. Họ đã đến Bêlem vào đầu mùa gặt lúa mạch" (R 1:22).


Bêlem là nơi sinh của vua Đavít, vị vua thứ hai của Israel, và cũng là nơi nhà vua đã được tiên tri Samuel xức dầu tấn phong Ông Samuen làm điều ĐỨC CHÚA đã phán; ông đến Bêlem và các kỳ mục trong thành run sợ ra đón ông. Họ nói: ‘Ông đến có phải là để đem bình an không?’. Ông trả lời: ‘Bình an! Tôi tới đây là để dâng hy lễ lên ĐỨC CHÚA. Các ông hãy thanh tẩy mình và đến dự hy lễ với tôi’. Ông thanh tẩy ông Giesê và các con trai ông ấy và mời họ đến dự hy lễ.


Khi họ đến, ông thấy Êliáp, ông nghĩ: ‘Đúng rồi! Người ĐỨC CHÚA xức dầu tấn phong đang ở trước mặt ĐỨC CHÚA đây! ‘ Nhưng ĐỨC CHÚA phán với ông Samuen: ‘Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn ĐỨC CHÚA thì thấy tận đáy lòng.’ Ông Giesê gọi Avinađáp và cho cậu đi qua trước mặt Samuen, nhưng ông Samuen nói: ‘Cả người này, ĐỨC CHÚA cũng không chọn.’ Ông Giesê cho Sama đi qua, nhưng ông Samuen nói: ‘Cả người này, ĐỨC CHÚA cũng không chọn.’ Ông Giesê cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Samuen, nhưng ông Samuen nói với ông Giesê: ‘. ĐỨC CHÚA không chọn những người này.’


Rồi ông lại hỏi ông Giesê: ‘Các con ông có mặt đầy đủ chưa?’. Ông Giesê trả lời: ‘Còn cháu út nữa, nó đang chăn chiên.’ Ông Samuen liền nói với ông Giesê: ‘Xin ông cho người đi tìm nó về, chúng ta sẽ không nhập tiệc trước khi nó tới đây.’Ông Giesê cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn. ĐỨC CHÚA phán với ông Samuen: ‘Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó! ‘. Ông Samuen cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí ĐỨC CHÚA nhập vào Đavít từ ngày đó trở đi. Ông Samuen đứng dậy và đi Rama.


Bêlem cũng là nơi ba dũng sĩ đã liều mình lấy nước cho vua Đavít uống.
Ba người trong Nhóm Ba Mươi làm thành một tốp đi xuống và đến gặp vua Đavít ở hang Ađulam, vào mùa gặt. Một đạo quân Philitinh đóng trại ở thung lũng người Rapha. Vua Đavít bấy giờ đang ở nơi ẩn náu, còn người Philitinh bấy giờ đóng đồn ở Bêlem. Vua Đavít ước ao và nói: ‘Phải chi có ai cho ta uống nước lấy ở giếng tại cổng thành Bêlem!’. Ba dũng sĩ đã đột nhập trại Philitinh, lấy nước ở giếng tại cổng thành Bêlem, đưa về cho vua Đavít. Nhưng vua không muốn uống mà đổ nước ấy làm lễ rưới dâng ĐỨC CHÚA. Vua nói: ‘Xin ĐỨC CHÚA đừng để ta làm điều ấy! Đó là máu của những người đã liều mạng đi lấy! ‘ Vậy vua không muốn uống nước. Đó là việc ba dũng sĩ đã làm. (2 Sm 23:13-17).


Nhưng trên tất cả, Bêlem là nơi con Thiên Chúa đã giáng trần như Phúc Âm của Thánh Luca (Lc 2:4-20) đã tường thuật.


Bởi thế, ông Giuse từ thành Nadarét, miền Galilê lên thành vua Đavít tức là Bêlem, miền Giuđê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đavít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.


Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: ‘Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ’. Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng:


"Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương."


Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: ‘Nào chúng ta sang Bêlem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết.’ Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.


Bêlem thời La Mã và Byzantine:


Thành phố Bêlem đã bị tàn phá trong cuộc nổi dậy Bar Kokhba (132-135) và người La Mã đã xây một đền thờ để thờ thần Adonis ngay tại địa điểm nơi Chúa giáng sinh. Năm 326, bà Helena (248-329) mẹ đại đế Constantine, vị đại đế đầu tiên theo Kitô Giáo, đến viếng Bêlem và đã truyền xây nhà thờ Giáng Sinh tại địa điểm này.


Trong cuộc nổi dậy của người Samaritanô vào năm 529, Bêlem bị cướp phá và nhà thờ Giáng Sinh bị phá hủy. Tuy nhiên, đại đế Giustinô I truyền cho xây lại ngay.


Đến năm 619, thành phố Bêlem lại bị quân Hồi Giáo Ba Tư chiếm đóng nhưng may mắn là những người này không phá hủy đền thờ. Những người Ba Tư thấy trên các bức ảnh trong nhà thờ có hình Ba Vua là những hình thường thấy trên trang phục vua chúa Ba Tư nên đã không dám phá hủy nhà thờ.


Năm 637, khi Giêrusalem bị quân Hồi Giáo chiếm thì Caliph (người kế vị tiên tri Môhammét của Hồi Giáo) Umar ibn alKhattab đến thăm Bêlem và hứa giữ lại nhà thờ Giáng Sinh cho người Kitô Giáo.


Bêlem thời Thập Tự Quân:

Năm 1099, Thập Tự Quân Kitô Giáo giải phóng Bêlem khỏi tay người Hồi Giáo. Một tu viện được xây thêm ở phía Bắc nhà thờ Giáng Sinh. Bêlem phát triển mạnh trong thời này. Vào năm 1100, vua Baldwin I, vị vua đầu tiên của Vương Quốc Giêrusalem được tấn phong tại Bêlem và cùng năm đó Giáo Hội thiết lập Tòa Thượng Phụ Công Giáo nghi lễ La Tinh đầu tiên tại Bêlem.


Trong thập niên 1160, nhà thờ Giáng Sinh được trùng tu với những phù điêu trình bày các công đồng của Giáo Hội.


Chẳng may, đến năm 1187, tướng Hồi Giáo gốc người Kurd là Saladin tái chiếm Bêlem và trục xuất toàn bộ các giáo sĩ Công Giáo. Năm 1192, Saladin nhượng bộ và cho 2 linh mục và 2 phó tế Công Giáo đến coi sóc nhà thờ Giáng Sinh. Theo một hiệp ước, Bêlem lại được kiểm soát bởi Thập Tự Quân trong thời gian từ 1229 đến 1244. Tuy nhiên, đến năm 1250, khi Rukn al-Din Baibars lên cầm quyền, các giáo sĩ Công Giáo lại bị buộc trục xuất. Khi Rukn al-Din Baibars qua đời, tình hình đỡ tệ hại hơn. Đến năm 1347, các tu sĩ dòng Phanxicô đã có thể cư ngụ tại tu viện ở phía Bắc nhà thờ Giáng Sinh, dần dà cai quản cả hang đá và toàn bộ nhà thờ Giáng Sinh.


Bêlem thời Đế Quốc Ottoman:


Năm 1517, Đế Quốc Ottoman chiếm được Giêrusalem và xúi giục Chính Thống Giáo Hy Lạp tranh chấp việc quản trị nhà thờ Giáng Sinh với Giáo Hội Công Giáo.


Từ năm 1831 đến năm 1841, toàn vùng Palestine rơi vào trong tay của tiểu vương Ai Cập Muhammad Ali. Trong thời gian này một trận động đất lớn xảy ra nhưng may mắn nhà thờ Giáng Sinh không bị thiệt hại.


Năm 1841, Bêlem lại rơi vào tay Đế Quốc Ottoman lần nữa và giữ nguyên tình trạng này cho đến hết cuộc thế chiến thứ nhất trước khi được người Anh quản trị.


Trong suốt thời kỳ Đế Quốc Ottoman cai trị Bêlem, các tu sĩ dòng Phanxicô bị các giáo sĩ Chính Thống Giáo lấn dần chỉ còn giữ được tu viện và một phần nhà thờ Giáng Sinh.


Bêlem thời Cận Đại:

Nghị quyết năm 1947 của Liên Hiệp Quốc xếp Bêlem vào khu vực quản trị đặc biệt của Liên Hiệp Quốc chung với Giêrusalem. Tuy nhiên năm 1948, Jordan chiếm Bêlem trong cuộc chiến với Do Thái. Trong cuộc chiến này làn sóng người tản cư ập vào Bêlem đã làm thay đổi sâu xa cấu trúc dân cư tại đây. Từ một thành phố đa số dân là Kitô Giáo, Bêlem biến dần thành một thành phố Hồi Giáo!


Jordan chiếm giữ thành phố này cho đến năm 1967 khi quân Do Thái tái chiếm cùng với toàn bộ vùng Tây Ngạn. Trong suốt thời gian này, người ta chứng kiến cảnh người Kitô hữu lũ lượt ra đi và người Hồi Giáo ùn ùn kéo tới.


Ngày 21/12/1995, Bêlem trở thành một phần lãnh thổ dưới sự kiểm soát hoàn toàn của của nhà nước Palestine. Giờ đây, Bêlem có 40,000 dân. Trong đó, Kitô hữu chỉ chiếm 12%. Tuy nhiên, theo các công ước quốc tế, thị trưởng Bêlem phải là người Kitô hữu và người Kitô Giáo phải chiếm đa số trong Hội Đồng Thành Phố.


Biến cố bi thảm gần đây nhất xảy ra hồi tháng Tư năm 2002. Từ tháng Ba đến tháng Tư 2002, Do Thái mở cuộc hành quân “Lá Chắn Tự Vệ” tại khu vực Tây Ngạn với dụng ý “nhổ tận gốc các thành phần vũ trang khủng bố” Palestine. Ngày 1/4/2002, xe tăng Do Thái vây Bêlem. Sáng ngày 2/4, 200 người Palestine vũ trang chạy trốn cuộc truy kích của Do Thái đã chạy vào nhà thờ Giáng Sinh. Quân Do Thái vây nhà thờ trong 39 ngày. Trong thời gian này, Do Thái đã bắn sẻ giết chết 9 người bên trong nhà thờ và làm nhiều người bị thương.


Theo các dàn xếp quốc tế, ngày 9/5, 26 người rời khỏi nhà thờ tiến ra quảng trường Máng Cỏ. Tại đây họ được Hoa Kỳ hộ tống đưa về khu vực dải Gaza sau khi đã chịu để quân Do Thái phỏng vấn. Ngày 10/5, 13 người được đưa ra xe buýt chở đến phi trường Ben Gurion bên ngoài Tel Aviv. Từ đây họ được phi cơ của quân đội Anh chở sang đảo Cyprus. Cũng trong ngày 10/5, những chiến binh khác của Palestine, trong đó, phần đông là cảnh sát Palestine đã được trả tự do sau khi bỏ súng đầu hàng.


Đặng Tự Do (VietCatholicNews)

Câu chuyện về ông già Noel hay còn được gọi là thánh Nicolas (Santa Klaus)


Hơn hai ngàn năm trước, vào một đêm đông giá buốt, những cơn gió lạnh từ phương bắc kéo về rên rỉ trên những tảng lá cây sồi. Trong một chiếc máng cỏ mục cũ, trên đống rơm rạ khô xót trong một cái hang đá khô quạnh mờ mờ ánh bạch lạp, ở một góc thành Bethlêhem, thuộc nước Do Thái cổ, Chúa Giêsu ra đời. Trên bầu trời đen thẳm, một vì sao sáng vạch một đường ánh sáng xuống cõi trần thế và dẫn đường cho Ba Vua phương Ðông tìm đến Ðấng Cứu Thế. Năm mà Chúa Giêsu giáng sinh được đánh dấu là Năm thứ Nhất kỷ nguyên chính thức của nhân loại. Từ đó, lịch sử được hình thành với hai ký hiệu: Trước Chúa Giáng Sinh và Sau Chúa Giáng Sinh. Ngày mà Ðấng Kitô chào đời, mặc dù còn nhiều sai lệch và tranh cãi tùy theo truyền thống lâu đời tùy niềm tin của nhiều giáo hội khác nhau. Nhưng nhân loại cùng chấp nhận lấy ngày 25 tháng 12 dương lịch mỗi năm là ngày tôn vinh Chúa Giêsu nhập thế.

Bên cạnh ngày Giáng Sinh, thì ngày 24 tháng 12 lại là ngày mà cả trẻ em lẫn người lớn trên toàn thế giới đều nô nức chào đón và tôn vinh một vị thánh có rất nhiều công trạng rao giảng và đem đức tin đến cho nhân loại. Ðó là Ông Già Noel, hay còn gọi là Santa Klaus. Ông Già Noel có thật hay chỉ là những câu chuyện huyền hoặc mà người ta lưu truyền từ ngàn năm trước cho đến mãi tận ngàn năm sau. Câu chuyện về một vị Thánh có tên là Nicôlas tiền thân của Ông Già Noel là hoàn toàn có thật. Câu chuyện Ông Già Noel cưỡi xe trượt tuyết với tám con nai chỡ đồ chơi bánh kẹo cho trẻ em trần thế và những huyền thoại được dựa vào, và được cải biến từ cuộc đời thánh thiện của thánh Nicolas mà chúng ta sẽ cùng được biết như sau:

Có thể nói, sau Chúa Giêsu và Ðức Mẹ Maria, thì tên của Thánh Nicolas được nhiều người biết đến nhiều nhất. Tên của ngài cũng được dùng để đặt tên cho nhiều giáo đường và trẻ sơ sinh nhiều nhất. Ngài cũng là một vị thánh được khấn nguyện nhiều nhất trong những lúc cùng khốn hay nguy cấp. Như vậy, chắc chắn thánh Nicolas phá kỷ lục Genus về vị dẫn đầu danh sách các thánh được kính nhiều nhất, được trông chờ nhiều nhất mỗi độ đông về. Không những của những người công giáo mà hầu như của cả nhân loại. Ngài là vị hộ thần độ mạng của con người và là người đem niềm vui chứa chan đến cho trần thế.

Năm 1969, Giáo Hội Công Giáo đã chính thức đặt vấn đề tra cứu về thân thế của Thánh Nicolas, để xem ngài có phải là một vị thánh thực sự hay chỉ là một huyền thoại. Sử liệu còn để lại đã chứng minh rằng ngài là một nhân vật có thật. Ngài sinh năm 280 sau Chúa Giáng Sinh tại một ngôi làng nhỏ tên Batara thuộc vùng Tiểu Á mà ngày nay thuộc lãnh thổ nước Thổ Nhỉ Kỳ. Cha mẹ ngài đã đặt tên cho ngài bằng tiếng Hy Lạp là Nicolas. Lúc ấy nền văn minh và văn hóa Hy lạp còn thống trị nhiều vùng đất rộng lớn trong đó có Thổ Nhỉ Kỳ. Theo tiếng Hy Lạp, Nicolas có nghĩa là Người Anh Hùng của Dân Tộc. Cái tên định mệnh đó rất xứng đáng đối với ngài ít nhất ở lãnh vực đạo đức và tôn giáo. Ông bà thân sinh ngài tuy không phải giàu có lắm nhưng hai ông bà luôn luôn bố thí của cải và giúp đỡ người nghèo. Hấp thụ từ nền đạo đức bác ái đó, cọng với lời dạy của hai đấng sinh thành rằng: "Phải luôn là người lương thiện, nghĩ đến người khác trước khi nghĩ đến mình", ngài đã trở thành một mẫu người thánh thiện ngay khi ngài còn ở độ tuổi thiếu niên. Một cơn dịch bệnh tràn qua thôn xóm đã giết mất hai ông bà thân sinh của cậu bé Nicolas lúc đó mới 12 tuổi. Tuy vậy, cậu bé Nicolas tiếp tục đem tiền bạc bố thí cho những người cùng khổ, và miệt mài học tập giáo lý. Ngài có một khả năng siêu nhiên lạ lùng là có thể cảm nghiệm được nỗi khổ đau đang xảy ra ở đâu đó và lập tức đến nơi cứu giúp.

Trong lịch sử Công Giáo có lẽ thánh Nicolas là người được phong chức Giám Mục thành Mira ở độ tuổi trẻ nhất. Lúc đó ngài mới có 19 tuổi. Vì vậy, bạn bè đặt cho ngài một cái biệt danh vui nhộn là "chú nhóc Giám Mục". Ngài cười cười vẫn chịu và chẳng phiền lòng tí nào. Trong thời gian hành đạo và cứu khổ, ngài đã bị một tai nạn lớn suýt chết, nhưng vẫn giữ được niềm tin cho đến cùng. Năm 303, lúc ngài mới 23 tuổi, Vua La Mã là Dio Pletian tự nhiên cảm mình cũng thuộc lại tầm cỡ, thuộc cõi trên, do đó ông buộc mỗi vùng thuộc đế quốc La Mã phải tôn phục ông là thượng đế. Dĩ nhiên Giám Mục Nicolas và giáo dân địa phận Mira của ngài không chịu tuân phục. Ðối với tín đồ Thiên Chúa Giáo, chỉ có một vị Thượng Ðế duy nhất, đó là Thiên Chúa. Vì vậy, thầy trò Nicolas đều được ưu ái mời vô khám nằm đếm lịch, ăn bánh mì đen và uống nước lã. Riêng ngài bị biệt giam trong một cái nhà tù nhỏ xíu, bị bỏ đói, khát và lạnh đến 10 năm. Vô cùng mầu nhiệm, ngài vẫn sống cho đến năm 313. Vị hoàng đế tự xưng là thượng đế là Dio Pletian lúc đó bị hất xuống khỏi ngai vàng, vua mới là Constantine lên thay, ra lệnh đại xá thiên hạ. Lao lý 10 năm đã làm cho đức tin và con người của Nicolas thêm bền vững. Ngài dốc tâm giảng đạo, phát triển giáo hội, bố thí của cải và đem vô số người đến với Chúa. Ngài sống được 63 tuổi. Ngày 6 tháng 12 năm 343, thánh Nicolas từ trần để lại cho trần thế một công nghiệp đồ sộ, một tên tuổi rực chói và những câu chuyện có thật lẫn huyền thoại mà vẫn được lưu truyền mãi cho đến ngày nay. Một thời gian ngắn sau khi thánh Nicolas từ giã trần thế, người dân Mira cũng dựng lên một ngôi đền thờ để an táng ngài, lưu giữ tất cả các vết tích và các vật dụng của ngài. Ðến năm 800 giáo hội công giáo đông phương chính thức tuyên dương ngài là thánh. Trong con mắt của người công giáo thì một vị thánh là đấng mà sau khi qua đời sẽ hiển linh và trở lại trần thế làm nhiều phép lạ để cứu giúp những người cùng khốn.

Có rất nhiều câu chuyện về thánh Nicolas cứu giúp trẻ em và người khốn khổ được lưu truyền. Chuyện nào cũng cảm động và chứa chan tình người. Ngài được người đời xưng tụng là thần hộ mạng của trẻ em, của thủy thủ, của người nghèo và của những người mang một nỗi niềm đau khổ nào đó cần được cứu giúp. Ba câu chuyện sau đây trong đó có một câu chuyện có thật về đức bố thí bác ái của thánh Nicolas. Một câu chuyện đã khiến cho người trần thế tôn xưng ngài là vị thánh hộ mạng của nhân loại, một vị thánh cứu vớt.

Câu chuyện kể về người thủy thủ một chiếc tàu sắp bị đắm trong vùng biển Ðịa Trung Hải. Con tàu bị lạc giữa một cơn bão tố và va phải đá ngầm và bị thủng một lỗ to. Nước biển tràn vào ồ ạt. Con tàu chồng chềnh ngã nghiêng và chìm dần xuống. Một vài thủy thủ chợt nhớ lại tên thánh Nicolas hằng cứu giúp, mặc dầu lúc ấy ngài đã tạ thế. Lập tức họ cùng nhau quỳ xuống khấn nguyện tên ngài và khẩn cầu ngài cứu vớt. Ðột nhiên từ trên không, giữa những làn nước giá buốt trút ầm ầm như thác, giữa những cơn sóng gầm thét điên cuồng, thánh Nicolas trong chiếc áo giám mục màu đỏ từ từ hạ xuống giữa khoang tàu. Gió bỗng thôi gào, mưa bão ngưng tạnh. Thánh Nicolas cùng thuỷ thủ đoàn quỳ xuống tạ ơn Thiên Chúa, rồi ngài cùng họ chèo chống con tàu ra khỏi vùng đá ngầm bằng một chiếc sào dài. Khi con tàu đã đến chỗ bình yên, thì ngài vẫy tay từ biệt họ, cất mình lên không và biến mất sau những đám mây trắng. Vẫn chưa chấm hết câu chuyện, khi con tàu cập bến Mira, các thủy thủ cùng vị thuyền trưởng đi đến ngôi đền thờ thánh Nicolas để làm lễ tạ ơn, thật lạ lùng, họ thấy ngài đã hiện ra lúc nào và đang mĩm cười đứng bên đền thờ nhìn họ. Một người hỏi rằng làm thế nào mà ngài đã biết và đến cứu họ. Thánh Nicolas cho biết, ngay từ thuở nhỏ, ngài đã có năng khiếu siêu nhiên là có thể nhìn thấy những người đang lâm nạn và nghe thấy tiếng kêu khóc của họ, vì đó là ý của Chúa. Từ câu chuyện này, mãi cho đến ngày sau, người Hi Lạp thay vì đập chai "sâm banh" (champagne) để khánh thành một chiếc tàu mới chuẩn bị hạ thủy thì họ khấn nguyện xin thánh Nicolas bảo hộ cho họ được bình yên trên các nẽo đường hàng hải.

Thánh Nicolas cũng được xưng tụng là thánh hộ mạng cho những cô gái nghèo không có của hồi môn để có thể kiếm được một tấm chồng qua câu chuyện ba túi vàng. Lúc ấy, ngài còn là một thanh niên, trước khi trở thành chú nhóc giám mục thành Mira. Một ngày kia, ngài nghe biết chuyện của một người thương gia sạt nghiệp nọ, nghèo đến nỗi không còn tiền bạc để chia của hồi môn về nhà chồng cho ba cô con gái. Có nhiều xứ âu châu á châu từ xưa đã có các hủ tục là con gái phải có của hồi môn thì người chồng mới chịu cưới. Các xứ như Pakistan, Ấn Ðộ, vẫn còn giữ tục lệ này. Ðộng lòng trắc ẩn, chàng thanh niên Nicolas tốt bụng chờ đến lúc đêm tối mang một túi vàng đến bên cửa sổ, lúc ấy nhà ông già khốn khổ đã ngủ say, và quẳng túi vàng qua khung cửa sổ. Nhờ những túi vàng đó ông thương gia đã gã được hai cô con gái lớn. Nhưng đến lần thứ ba thì ông quyết định rình coi ai là ân nhân cứu giúp mình. Ông bắt gặp chàng trai Nicolas, nhưng chàng xin ông hãy giữ bí mật vì chàng chỉ làm việc thiện theo ý của Thiên Chúa. Cho đến khi sắp sữa lìa đời ông già mới tiết lộ cho con cháu danh tính của vị ân nhân. Cũng có người kể lại là thay vì thảy túi vàng qua cửa sổ, thì chàng trai Nicolas trèo lên chỗ ống khói lò sưởi và thảy túi vàng xuống rồi trúng vào ngay chiếc vớ đã giặt của các cô gái treo cạnh lò sưởi đê hong khô qua đêm. Từ đó tục treo vớ hoặc giày ống gần lò sưởi ngay vào đêm giáng sinh với niềm hy vọng sáng ra sẽ thấy quà tặng của Santa Klaus nằm trong đó.

Thân ái kính chào quý vị và các bạn.

Linh Mục Văn Kim (Vietcatholic News)

TIME




TIME...

is very precious to me as a Student. I must be diligent in my homework, I must put into practice of guarding and using my days/hours/minutes and seconds wisely.

But for the rest of you... is time this valuable? Do you drift through life thinking that it's all about you and that nothing else matters?

Sorry to be so blunt but you're WRONG!

Life, time and everything else exists because of God, God made time and can take it away - hence, no more all-about-you moments and the like.

I'll talk more about this later, but TIME is ticking and I need to get some additional homework done.

Peace and Love, from God above

***NV***

Bêlem trước thềm Giáng Sinh

Khi Đức Thượng Phụ Michel Sabbah của Công Giáo nghi lễ La Tinh tại Thánh Địa cử hành thánh lễ tại nhà thờ Giáng Sinh trong buổi tối Vọng Giáng Sinh, tình hình nơi ngôi làng nhỏ bé này cũng như trong vùng đã thay đổi quá xa so với thời điểm một năm trước đây.
Lễ Giáng Sinh năm ngoái, tiếp theo những dàn xếp của ngoại trưởng Hoa Kỳ Condoleezza Rice, Do Thái đã chịu triệt thoái ra khỏi dải Gaza. Những cuộc tấn công khủng bố ngang qua biên giới với Do Thái biến mất, và người dân Palestine tại Gaza cũng như ở khu vực Tây Ngạn sông Jordan đã hoàn tất cuộc bầu cử dưới sự giám sát của chính phủ được bầu lên cách dân chủ của tổng thống Muhammad Abbas, một biểu tượng cho sự ôn hòa và thương thảo. Buổi lễ Giáng Sinh tại Bêlem năm ngoái với sự hiện diện của tổng thống Abbas, một người Hồi Giáo Sunni, và những tháo gỡ các hạn chế đi lại của quân đội Do Thái, đã được giới quan sát coi là một dấu chỉ hy vọng.
Tuy nhiên, giờ đây khi người dân Palestine quyết định bầu cho các phần tử Hồi Giáo quá khích Hamas, chiến tranh lại tái phát trên dải Gaza. Hòa bình tại phần đất nơi hoàng tử hòa bình đã được hạ sinh giờ đây trở nên mờ mịt. Làn sóng bạo lực tại Thánh Địa gia tăng mạnh mẽ sau các cuộc tấn kích của Do Thái tại dải Gaza cũng như trên phần đất Li Băng nhằm tấn công vào nhóm khủng bố Hezbollah do Syria yểm trợ.
Tuy nhiên, trong khói lửa chiến tranh hy vọng hòa bình tại phần đất này vẫn chưa lụi tàn. Dù tại Trung Đông hiện nay, chủ nghĩa cuồng tín Hồi Giáo và hệ quả là chủ nghĩa khủng bố Hồi Giáo phát triển hơn bao giờ, khuynh hướng chung của các nước trong vùng vẫn là hòa hoãn để phát triển. Khuynh hướng này đang lớn dần, đặc biệt sau chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Thổ Nhĩ Kỳ, và tối hậu sẽ có thể cân bằng được với tư duy bạo lực mà chúng ta đã chứng kiến trong năm qua.
Israel và Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay đang có quan hệ ngoại giao hoàn toàn. Theo thống kê, năm 2003 có 300,000 du khách Do Thái đến thăm khu du lịch Antalya của Thổ Nhĩ Kỳ, và trong năm 2006, đây vẫn là địa điểm du lịch lý tưởng của người Do Thái.
Trong năm ngoái, bất chấp cuộc tấn công 34 ngày vào miền Nam Li Băng để thanh toán nhóm Hezbollah do Syria yểm trợ, biên giới giữa Do Thái và Syria đã không có thương vong nào được ghi nhận.
Israel và Jordan cũng đã có những tiến triển ngoại giao quan trọng. Giờ đây, hàng không Do Thái có đường bay thẳng sang thủ đô Amman của Jordan. Trong khi, các hãng hàng không Jordan được phép bay ngang qua không phận Do Thái, một điều chưa có quốc gia Ả rập nào được phép. Các cuộc thương thảo vẫn đang tiếp diễn sẽ cho phe;p các khoáng sản của Do Thái tại Biển Chết được xuất cảng ra nước ngoài thông qua cảng Aqaba của Jordan. Trong khi Jordan cũng đamg muốn dùng các cảng ven bờ Địa Trung Hải dể xuất cảng hàng hóa của mình.
Quan hệ ngoại giao giữa Do Thái và Ai Cập vẫn là một quan hệ lạnh lùng nhưng hòa bình từ sau cuộc viếng thăm lịch sử của tổng thống Anwar Sadat 29 năm trước đây. Do Thái đã chịu trả lại bãi biển Taba bên bờ vịnh Elat dẫn ra Biển Đỏ. Và giờ đây các khách sạn mà trước đây do người Do Thái làm chủ giờ đây dù đã rơi vào tay người Ai Cập, vẫn đông đúc khách du lịch Do Thái sang tắm nắng.
Tuy nhiên, yếu tố quan trọng nhất vẫn là tổng thống Abbas. Ông Abbas tiếp tục phục vụ trong chính quyền Palestine tại Gaza và khu vực Tây Ngạn sông Jordan, và vẫn còn là đối tác thương thảo với Do Thái và Tây phương. Người ta có nhiều hy vọng ông sẽ lại có mặt trong lễ Vọng Giáng Sinh tới đây trong nhà thờ Giáng Sinh và tiếp tục những con đường thương thảo cho một hy vọng về hòa bình trong tương lai gần.

Đặng Tự Do (VietCatholic News)

Tuesday, December 19, 2006

Báo Time: Người của năm 2006 là Bạn, Người Sử Dụng WWW


NEW YORK – Chúc mừng BẠN, Bìa của Tuần san Time năm nay đã chọn Bạn là “Người của Năm 2006”.

Theo truyền thống vào ngày cuối mỗi năm báo Time chọn một người vinh danh về thành tích trổi vượt vì có sức thay đổi hàng triệu người trên thế giới. Người này có thể là cá nhân hay một tập đoàn.

Thế nhưng năm nay, lần đầu tiên đã không chọn một cá nhân hay tập đoàn nào để vinh danh mà trên trang bìa chỉ để một hình máy computer có màn hình trống và đề tên Anh, Bạn.

Báo Time viết rằng trong tình hình thay đổi về kĩ thuật ngày nay thì người thắng cuộc chính là các công dân của nền dân chủ mới về thuật điện toán, là mỗi người hay bất cứ ai sử dụng hay tạo nên nội dung của trang Web toàn cầu World Wide Web.

"Nếu bạn chọn một cá nhân, bạn sẽ phải chứng minh người đó ảnh hưởng từng triệu người, nhưng nếu bạn chọn cả từng triệu người, bạn không cần phải bình luận dẫn giải gì cho bất cứ ai”, ông Richard Stengel người trách nhiệm chủ bút của Time tuyên bố như vậy.

Trong nội dung tuần san Time phát hành vào ngày mai thứ Hai 19.12.2006 cũng đặc biệt kể tên 26 người có tầm cỡ ảnh hưởng lớn như: Đức Giáo hoàng Benêdictô XVI, bộ ba Hoa Kỳ: Tổng thống Bush, phó TT Dick Cheney và cựu Bộ trưởng quân sự Donald Rumsfeld và nhà độc tài Bắc Hàn Kim Joing II, v.v…

Ông Stengel cũng tiết lộ rằng có lúc báo Time đã định chọn tổng thống Iran là Mahmoud Ahmadinejad, nhưng rồi lại thôi, vì thấy có gì đó không ổn.

Đây là lần đầu tiên không chọn ai cả, tuy nhiên trong quá khứ cũng có những trường hợp khá khác biệt như năm 1966 chọn “thế hệ 25 tuổi trở xuống”; năm 1975 chọn “Phụ nữ Hoa Kỳ”; và năm 1982 “chiếc máy computer” được chọn.

Ông Stengel nhận định rằng: “Tôi luôn thích khi có ai đó được chọn, tôi con người có xương thịt hơn là chiếc máy computer hay gì khác. Tuy nhiên năm nay chúng tôi thấy không thấy có ai bao gồm được hết hiện tượng này”.

Năm vừa qua, Time chọn vợ chồng Bill và Melinda Gates cùng với sao nhạc rock là Bono, vì họ đóng góp vào công việc từ thiện bác ái cũng như hoạt động tích cực nhằm xóa đói giảm nghèo và thăng tiến tình trạng sức khoẻ dân chúng trên thế giới.

LM Trần Công Nghị (VietCatholicNews)

Monday, December 18, 2006

Bởi Ðâu Tôi Ðược Mẹ Chúa Viếng Thăm

Với cuộc sống con người, ai ai trong chúng ta cũng mang lấy tâm trạng muốn cho mình tích trữ được nhiều thứ của cải: của cải vật chất và của cải tinh thần. Của cải vật chất như được giàu sang, được uy quyền. Ai lại chẳng muốn được như câu nói mà người ta thường đùa với nhau: "Ở nhà Tây, ăn cơm Tàu, lấy vợ Nhật" và cuối cùng là "đám tang Việt Nam".

Ở nhà Tây, vì tiện nghi đầy đủ. Ai lại không khen các món ăn của Tàu nổi tiếng là ngon. Người đàn bà Nhật chiều chuộng chồng mình không ai lại không cảm thấy không kính phục. Và đám tang Việt Nam chúng ta với bao nhiêu nghi thức đầy cảm động gợi lên tâm tình của người còn sống đối với người thân yêu đã khuất. Ai trong chúng ta lại chẳng muốn được quyền uy, đi đâu có tiền hô hậu ủng, đưa đón rước sách, mọi người nhìn bằng cặp mắt kính nể, thán phục.


Về của cải tinh thần, ai lại không mơ ước trên phương diện nghệ thuật mình sáng tác, những bản nhạc thời danh như Bach, Bethoven, Mozart, hoặc thành những khoa học gia nổi tiếng về không gian chế ra bom B1-B2 và hỏa tiễn lên cung trăng đầu tiên như Volgra người Ðức gốc Do Thái. Và biết bao nhiêu mơ ước, biết bao nhiêu tham vọng khác nữa ở trong mỗi một con người nhỏ bé của chúng ta.


Ðó là tâm trạng tâm lý thường tình của con người mà thôi. Nó không tốt mà cũng không xấu, khi chủ ý đặt mục đích và phương tiện tốt thì nó tốt, còn khi chúng ta dùng để tự kiêu, ngạo mạn và làm hại người khác thì nó xấu. Có một điều quan trọng nhất của người Kitô hữu chúng ta đó là khi chúng ta xin đức tin cùng Hội Thánh trong ngày lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, được rước Chúa vào trong tâm hồn, chúng ta khư khư giữ lấy Chúa ích kỷ riêng cho mình, không mang Thiên Chúa đến cho người khác.


Thiên Chúa chúng ta là một kho tàng vô giá, một kho tàng tích chứa tình yêu vô bờ bến, một kho tàng tích chứa bình an thực sự, và là một kho tàng tích chứa sự khôn ngoan tuyệt đối. Một kho tàng quí giá vô cùng như vậy thế mà chúng ta đã không biết lợi dụng để mang đến cho mọi người, để rồi tha nhân không nhìn ra khuôn mặt Thiên Chúa yêu thương qua cuộc sống của chúng ta. Vì thế, những người vấp ngã, những người gặp hiểm nguy khó khăn trong cuộc sống, họ không gặp được Thiên Chúa bình an, Thiên Chúa hy vọng và Thiên Chúa hạnh phúc. Những người hoang mang lạc lối trên đường đời chúng ta đã không chỉ cho họ đến với Thiên Chúa là Ðấng thông minh, khôn ngoan tuyệt vời. Thiên Chúa đau khổ biết bao khi chúng ta đã không mang Chúa đến cho tha nhân.


Và hôm nay Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua gương mẫu Mẹ Maria, chính Mẹ đã nhận được diễm phúc mang Con Chúa trong lòng, để rồi Mẹ đã vội vã lên đường mang Chúa đến cho người chị họ là bà Isave. Nhờ đó, thánh Gioan Tẩy Giả nằm trong bụng mẹ cũng được chia sẻ niềm vui ấy. Ðó là bài học quí hóa nhất cho cuộc sống chúng ta, người con cái của Thiên Chúa đã nhận biết Chúa, đã mang Chúa trong tâm hồn, không ích kỷ giữ riêng Chúa cho mình nhưng cùng chia sẻ niềm vui ơn cứu rỗi đó cho mọi người xung quanh.Lạy Chúa, trong Mùa Vọng này, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con tâm tình sốt sắng đón nhận Chúa đến để sự bình an của Chúa thực sự ngự trị trong tâm hồn chúng con.


Lạy Chúa, như xưa Mẹ Maria đã đem Chúa đến cho bà chị họ là bà Isave, thì nay xin Chúa cho chúng con luôn biết hăng say đem Chúa đến cho mọi người qua cuộc sống hiền hòa, yêu thương, tha thứ trong niềm tin yêu hy vọng và lạc quan, vì Chúa đến và vui thích ở giữa dân Người. Amen.


Đ.Ô. Phêrô Nguyễn Văn Tài (Vietcatholic News)

Trong Sứ Điệp Hòa Bình Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI tán dương 2 quyền như là chìa khóa hòa bình


Đức Thánh Cha đề cao sự sống và quyền tự do tôn giáo trong sứ điệp Hòa Bình Thế Giới

VATICAN (zenit.org)

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã đề cao quyền sự sống và quyền tự do tôn giáo như là những bảo đảm cho hòa bình - nếu những quyền đó được tôn trọng.

Đức Giáo Hoàng giải thích điều này trong sứ điệp gởi Ngày Thế Giới Hoà Bình 2007, Ngày mà Giáo Hội sẽ cử hành vào ngày 1 tháng Giêng với chủ đề "Con Người, Trung Tâm Hoà Bình.

"Đức Hồng Y Renato Martino, chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng Công Lý và Hoà Bình, đã trình bày sứ điệp vào ngày 12/12 tại cơ quan báo chí Vatican.

Trong sứ điệp của ngài Đức Thánh Cha nói ngài đã viết văn kiện này "vì quan tâm tới thiếu nhi, cách riêng những kẻ mà tương lai bị làm hại do sự khai thác và ác ý của những người trưởng thành vô lương tâm."

"Nhiệm vụ tôn trọng phẩm giá của mỗi hữu thể nhân bản, mà hình ảnh của Đấng Sáng Tạo phản chiếu trong bản tính của họ, kéo theo hậu quả là con người không thể bị giải quyết cách tùy tiện," Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI khẳng định. "Những kẻ nắm quyền chính trị, kỹ thuật hay kinh tế lớn hơn không thể sử dụng quyền hành để xâm phạm những quyền của kẻ khác ít được may mắn hơn.

"Vì hoà bình đặt nền tảng trên sự tôn trọng những quyền của tất cả kẻ khác," Đức Giáo Hoàng nói rõ rằng "Giáo Hội bênh vực những quyền cơ bản của mỗi người."

"Cách riêng, Giáo Hội cổ võ và bênh vực sự tôn trọng mạng sống và quyền tự do tôn giáo của mọi người," ngài ghi nhận. "Sự tôn trọng quyền sống trong mọi giai đoạn thiết lập vững mạnh một nguyên lý có tầm quan trọng đứt khoát: sự sống là một ân huệ không hoàn toàn tùy thuộc chủ thể."Không tùy thuộc con người.

Tương tự, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI nói thêm," sự quả quyết về quyền tự do tôn giáo đặt con người trong một tương quan với nguyên lý siêu việt đưa họ ra khỏi ý thích con người.

"Đức Thánh Cha vạch rõ "quyền sống và diễn tả tự do về đức tin cá nhân trong Thiên Chúa không lệ thuộc quyền con người."

Đề cập tới tình huống hiện nay của quyền sống, Đức Giáo Hoàng tố giác "sự vi phạm đang lan tràn của nó trong xã hội chúng ta: cùng với những nạn nhân các vụ xung đột vũ trang, nạn khủng bố và những hình thức bạo tàn khác biệt, có những cái chết âm thầm vì đói, phá thai, những thí nghiệm trên những phôi thai người và sự làm chết êm dịu."

Đức Giáo Hoàng hỏi "lẽ nào chúng ta không thấy trong tất cả những sự này một sự tấn công hoà bình?... Sư phá thai và sự thí nghiệm phôi thai là một sự chối từ trực tiếp của thái độ chấp nhận những kẻ khác, sự chấp nhận đó là cần thiết để xây dựng những tương quang lâu dài hoà bình."

Trong sự thiếu tự do bày tỏ đức tin cá nhân, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI thấy một " triệu chứng đầy âu lo của sự thiếu hoà bình trong thế giới," hiện rõ trong "những khó khăn mà những người Kitô hữu cũng như những tín đồ các tôn giáo khác thường gặp trong việc tuyên xưng công khai và tự do những xác tín tôn giáo của họ."

Nói cách riêng về những Kitô hữu, sứ điệp giáo hoàng chỉ rõ "với lòng đau đớn không những thỉnh thoảng họ bị ngăn cấm, nhưng trong một số Nước họ đang bị bắt bớ, và cả những trường hợp thê thảm mới đây vể sự bạo tàn hung dữ đã được ghi nhận."

"Có những chế độ áp đặt chỉ một tôn giáo trên mọi người, đang khi những chế độ tục hoá thường không dẫn tới sự bắt bớ tàn bạo mà đúng hơn là chê bai về mặt văn hoá có hệ thống những niềm tin tôn giáo, ' ngài than phiền. Điều này chỉ có thể cổ võ một tâm lý và văn hoá không đưa tới hoà bình.

Đ.Ô Nguyễn Quang Sách (VietCatholicNews)

SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI CHO VIỆC CỬ HÀNH NGÀY THẾ GIỚI HOÀ BÌNH


1 THÁNG GIÊNG 2007

NHÂN VỊ, TRỌNG TÂM CỦA HOÀ BÌNH

1. Vào đầu năm mới, tôi xin gửi đến các giới chức Chính Quyền, những nhà lãnh đạo các quốc gia cũng như mọi người nam nữ thiện chí lời cầu chúc hoà bình của tôi. Đặc biệt, tôi gửi lời cầu chúc hoà bình đến tất cả những ai đang phải chịu đau khổ, những người đang sống dưới sự đe doạ của bạo lực và hân thù vũ trang, cũng như những người mà nhân phẩm của họ bị chà đạp, đang chờ đợi sự giải phóng con người và xã hội. Tôi cầu chúc hoà bình cho các trẻ em, những con người ngây thơ vô tội; các em làm cho nhân loại thêm phong phú bằng sự tốt lành và niềm hi vọng, nhưng cũng là những người phải chịu biết bao đau khổ, thôi thúc tất cả chúng ta hành động cho công lí và hoà bình. Vì quan tâm đến các trẻ em, nhất là những em mà tương lai bị tổn thương do sự khai thác và do lòng độc ác của những người lớn vô lương tâm, tôi mong ước ngày Thế Giới Hoà Bình này thúc giục mọi người suy tư về chủ đề: Nhân vị, Trọng Tâm của Hoà Bình. Tôi xác tín rằng sự tôn trọng con người sẽ phát triển hoà bình, và khi xây dựng hoà bình thì những nền tảng được đặt trên một học thuyết nhân bản toàn diện đích thực. Như vậy là chuẩn bị cho những thế hệ nối tiếp một tương lai an bình.

Nhân vị và hoà bình: ơn ban và trách nhiệm

2. Sách Thánh xác quyết rằng “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh mình, theo hình ảnh Thiên Chúa, Người tạo dựng họ; Người tạo dựng họ có nam có nữ ”(St 1, 27). Được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, mỗi người đều có phẩm giá của một nhân vị; họ không chỉ là một vật thể, mà còn là một con người, có khả năng ý thức, tự quy, tự do trao hiến và đi vào hiệp thông với tha nhân. Đồng thời, nhờ ân sủng mỗi người được mời gọi kết ước với Đấng Tạo Hoá, được mời gọi trao hiến cho Người một sự đáp trả bằng đức tin và tình yêu mà không một thụ tạo nào khác có thể trao ban thay thế họ (1). Từ cái nhìn siêu nhiên này, mỗi người có thể hiểu rõ trách nhiệm được kí thác cho loài người là lớn lên trong khả năng yêu thương và góp phần vào việc phát triển thế giới, đổi mới nó trong công lí và hoà bình. Trong một câu súc tích tuyệt vời, Thánh Augustinô dạy rằng “Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, Người không cần sự cộng tác của chúng ta; nhưng Người không thể cứu chuộc chúng ta nếu không có sự hợp tác của chúng ta (2).” Do đó mọi người đều có bổn phận phải vun trồng ý thức lưỡng diện về ơn ban và trách nhiệm.

3. Cũng vậy, hoà bình vừa là ơn ban vừa là trách nhiệm. Nếu sự thật là hoà bình giữa cá nhân và mọi ngừơi- khả năng sống chung và xây dựng những tương quan công bình và liên đới- đòi hỏi một sự dấn thân liên lỉ về phía chúng ta, thì cũng vậy, và còn hơn thế, hoà bình là một ân huệ của Thiên Chúa. Hoà bình là một hình thái hoạt động của Thiên Chúa vừa biểu lộ trong việc tạo dựng một vũ trụ hài hoà và trật tự cũng như trong việc cứu chuộc loài người, nghĩa là cần phải được giải thoát khỏi tình trạng hỗn loạn của tội lỗi. Như vậy Tạo Dựng và Cứu Chuộc là những mật khoá giúp chúng ta hiểu ra ý nghĩa cuộc sống của chúng ta trên trần gian. Vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, Đức Gioan Phaolô II, khi phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc vào ngày 5 tháng Mười năm 1995, nói rằng “chúng ta không sống trong một thế giới phi lí và vô nghĩa…có một trật tự luân lí được thiết định trong đời sông con người tạo nên một cuộc đối thoại khả dĩ giữa cá nhân và mọi người (3).” “Ngữ pháp” siêu việt, nghĩa là một tổng hợp các quy tắc cho hành vi cá nhân cũng như cho những tương quan hỗ tương giữa con người hợp theo công bình và liên đới, đã được ghi tạc vào lương tâm con người, nơi đó phản ánh kế hoạch khôn ngoan của Thiên Chúa. Như mới đây tôi đã có dịp tái khẳng định: “Chúng ta tin rằng từ khởi nguyên mọi sự, Ngôi Lời Hằng Hữu là Lí Trí chứ không phải là Phi Lí (4)”. Như vậy, hoà bình cũng là một trách nhiệm đòi hỏi mọi người một sự đáp trả cá nhân, phù hợp với chương trình của Thiên Chúa. Tiêu chuẩn thúc đẩy sự đáp trả này chỉ có thể là sự tôn trọng đối với “ngữ pháp” đã được Đấng Tạo Dựng ghi tạc vào tâm khảm con người.

Từ quan điểm này, những quy tắc về luật tự nhiên không được coi như những chỉ thị áp đặt từ bên ngoài, như những hạn chế đối với tự do con người. Đúng hơn, chúng phải được đón nhận như một lời mời gọi để thực hiện một cách trung thành kế hoạch phổ quát của Thiên Chúa đã được ghi khắc vào trong bản tính của con người. Được các quy tắc này hướng dẫn, mọi người- trong nền văn hoá đặc thù của mình- có thể tiến đến gần mầu nhiệm cao cả nhất, là mầu nhiệm Thiên Chúa. Ngày nay cũng vậy, sự nhận biết và tôn trọng luật tự nhiên được đặt làm nền tảng cho một cuộc đối thoại giữa những tín đồ của những tôn giáo khác nhau cũng như giữa những tín hữu và những người không tin. Đó là một điểm hội ngộ chung, và đó cũng là điều giả định căn bản cho nền hoà bình đích thực.

Quyền sống và quyền tự do tôn giáo

4. Bổn phận tôn trọng phẩm giá mỗi người, mà nơi bản tính của họ phản chiếu hình ảnh Thiên Chúa, mặc nhiên có nghĩa là con người không thể tự ý định đoạt cho mình. Những người được hưởng nhiều quyền hạn hơn về chính trị, kĩ thuật, hoặc kinh tế không nên dùng khả năng ấy mà xâm phạm quyền của những người kém may mắn hơn. Hoà bình được đặt trên sự tôn trọng quyền của mọi người. Ý thức điều đó, Giáo Hội bảo vệ những quyền căn bản của mỗi người. Đặc biệt Giáo Hội đề cao và bảo vệ việc tôn trọng sự sống và sự tự do tôn giáo của mọi người. Tôn trọng quyền sự sống trong mỗi giai đoạn chắc chắn chứng thực một nguyên lí có tầm quan trọng quyết định: sự sống là một hồng ân; chủ thể không được toàn quyền định đoạt. Một cách tương tự, khẳng định quyền tự do tôn giáo đặt con người vào trong tương quan với một Nguyên Lí siêu việt, đưa con người ra khỏi sự chuyên chế của chính con người. Quyền sự sống và sự tự do diễn đạt niềm tin riêng của mình vào Thiên Chúa không lệ thuộc vào quyền hành của con người. Hoà bình đòi hỏi sự thiết lập một ranh giới minh thị giữa những gì do con người có quyền định đoạt và những gì không thuộc quyền ấy: như thế người ta có thể tránh được những xâm phạm không đáng có đối với di sản thuộc về giá trị con người.

5. Liên quan đến quyền sự sống, chúng ta phải tố cáo sự xâm hại đang lan rộng trong xã hội chúng ta: ngoài những nạn nhân do các cuộc xung đột vũ trang, do chủ nghĩa khủng bố và những hình thức bạo lực khác nhau, còn có những cái chết âm thầm do đói nghèo, phá thai, thử nghiệm phôi người và chết êm dịu. Làm sao chúng ta lại không nhận ra sự tấn công vào hoà bình trong tất cả những điều ấy? Phá thai và thử nghiệm phôi người là sự phủ nhận trực tiếp thái độ đón nhận người khác, vốn không thể thiếu được trong việc thiết lập những tương quan hoà bình lâu dài. Liên quan đến sự tự do bày tỏ niềm tin cá nhân, một triệu chứng bất ổn khác về sự thiếu vắng hoà bình trong thế giới được biểu tỏ qua những khó khăn mà cả những Kitô hữu cũng như tín đồ của các tôn giáo khác thường xuyên gặp phải trong việc công khai và tự do tuyên xưng những xác tín tôn giáo của mình. Nói riêng về các Kitô hữu, tôi phải đau lòng chỉ ra rằng không phải chỉ đôi khi họ bị ngăn cấm làm điều đó; trong một số quốc gia họ bị bách hại thật sự, và những trường hợp bi thảm về bạo lực dã man mới đây vẫn còn được ghi nhận. Có những chính thể áp đặt một tôn giáo duy nhất cho mọi người. Dẫu thường không tiến hành những sự bách hại gắt gao dữ dội, các chính thể trần tục này lại thực hiện sự lăng mạ có tính cách hệ thống và mang tính văn hoá đối với những niềm tin tôn giáo. Trong mọi trường hợp, quyền căn bản của con người không được tôn trọng tạo nên sự phản dội nghiêm trọng cho sự chung sống hoà bình. Điều này chỉ làm mạnh thêm cho một tâm thức và văn hoá tiêu cực đối với hoà bình.

Sự bình đẳng thiên bẩm giữa mọi người

6. Cội nguồn của nhiều căng thẳng đe dọa hoà bình chắc chắn là vô số những bất bình đẳng phi lí vẫn còn tồn tại một cách bi thảm trong thế giới chúng ta. Đặc biệt khó khăn trong số này, một mặt là sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận những của cải căn bản như thực phẩm, nước sạch, nhà ở, sức khoẻ; mặt khác có những bất bình đẳng cố hữu giữa người nam và người nữ trong việc thực hiện những quyền con người căn bản.Yếu tố nền tảng để xây dựng hoà bình là nhìn nhận sự bình đẳng thiết yếu giữa mọi người xuất phát từ phẩm giá siêu việt chung. Bình đẳng trong tầm mức này là một sự thiện hảo thuộc về mọi người, được ghi khắc trong “ngữ pháp” tự nhiên, có thể suy ra từ chương trình tạo dựng của Thiên Chúa; một sự thiện hảo không thể làm ngơ hoặc khinh miệt mà không gây ra những phản dội nghiêm trọng, đặt hoà bình vào mối hiểm hoạ. Sự tước đoạt cực kì nghiêm trọng tác hại đến nhiều dân tộc, nhất là tại Châu Phi, là nguồn gốc của những phản ứng bạo động, và vì thế, tạo nên một vết thương tồi tệ cho hoà bình.

7. Một cách tương tự, sự thiếu tôn trọng thỏa đáng đối với thân phận người phụ nữ tạo nên sự bất ổn trong cơ cấu xã hội. Tôi liên tưởng đến việc khai thác những người phụ nữ, bị coi như những đồ vật và nhiều hình thức khai thác khác tỏ rõ sự thiếu kính trọng đối với phẩm giá của họ; tôi cũng nghĩ tới – trong một bối cảnh khác- về tâm thức cố hữu trong một số nền văn hoá, nơi mà phụ nữ vẫn còn phải lụy phục một cách bất suy chuyển vào những quyết định độc đoán của đàn ông, tạo nên những hệ qủa nghiêm trọng đối với phẩm giá cá nhân của họ cũng như cho việc thực hiện những quyền tự do căn bản. Người ta không thể xây dựng ảo tưởng về một nền hoà bình vững chắc khi nào những hình thái đối xử phân biệt này chưa bị loại bỏ, bởi vì chúng làm tổn hại đến nhân phẩm mà Đấng Tạo Hoá đã đóng ấn trên mỗi người (5).

“Môi trường sinh thái của hoà bình”

8. Trong Thông điệp Bách Chu Niên - Centesimus Annus, Đức Gioan Phaolô II viết: “Thiên Chúa không chỉ ban cho con ngừơi trái đất để họ sử dụng trong sự tuân thủ mục đích tốt đẹp nguyên thủy như nó được trao ban cho họ, nhưng con người cũng là ân huệ mà Thiên Chúa ban cho chính con người. Do đó họ phải tôn trọng trật tự tự nhiên và luân lí mà họ được phú bẩm (6)”. Đáp lại huấn lệnh được Đấng Tạo Hoá ủy thác cho họ, những người nam nữ có thể liên kết với nhau trong việc kiến tạo một thế giới hoà bình. Bên cạnh môi trường sinh thái thiên nhiên còn tồn tại một thế giới được gọi là môi trường sinh thái “nhân sinh”, và rốt cuộc, lại cũng cần đến một môi trường sinh thái “xã hội”. Sự thể này có nghĩa là nếu nhân loại thật sự mong muốn hoà bình họ phải không ngừng ý thức mối liên hệ giữa môi trường sinh thái tự nhiên, hay việc tôn trọng thiên nhiên, và môi trường sinh thái của con người. Kinh nghiệm cho thấy rằng thái độ bất ý đối với môi trường sinh thái luôn tác hại đến sự tồn sinh của con người, và ngược lại. Càng hiển nhiên hơn nữa trong tương quan giữa hoà bình với tạo vật và hoà bình giữa con người. Cả hai mối tương quan này phải đi trước hoà bình với Thiên Chúa. Bài thơ kinh của Thánh Phanxicô, được đặt là “Khúc ca Mặt Trời”, là một mẫu mực tuyệt vời và luôn hợp thời về môi trường sinh thái đa diện của hoà bình.

9. Mối liên hệ khắng khít giữa hai loại hình môi trường sinh thái này có thể được hiểu rõ hơn từ vấn đề cung cấp năng lượng. Trong những năm gần đây nhiều quốc gia mới khởi phát năng nổ tiến vào việc sản xuất công nghiệp, vì vậy nhu cầu năng lượng tăng cao. Điều này dẫn đến một cuộc chạy đua chưa từng thấy trong việc dành nguồn năng lượng. Tuy nhiên, một số nơi trên hành tinh này vẫn còn lạc hậu và sự phát triển thật sự bị bế tắc, một phần là do giá năng lượng biến tăng. Điều gì sẽ xảy ra cho các dân tộc đó? Những mô hình phát triển hay không phát triển nào sẽ áp đặt trên họ do khan hiếm nguồn cung cấp năng lượng? Những sự bất công nào và những cuộc xung đột nào sẽ tạo phát do việc chạy đua tìm nguồn năng lượng? Và những phản ứng nào sẽ xảy ra đối với những người bị loại khỏi cuộc chạy đua này? Đây là những vấn nạn cho thấy rõ việc tôn trọng thiên nhiên gắn chặt với nhu cầu phải thiết lập những mối tương quan, giữa các cá nhân với nhau cũng như giữa các quốc gia, biết chú tâm đến phẩm giá con người đồng thời có khả năng giải quyết các nhu cầu chính đáng của họ. Triệt hủy môi trường, sử dụng ích kỉ hoặc không thích đáng, cưỡng chiếm nguồn năng lượng trái đất sẽ gây ra những mối rạn nứt, những xung đột và những cuộc chiến tranh, chính do bởi chúng là hệ qủa của một quan niệm vô nhân đạo về phát triển. Qủa thật, nếu việc phát triển chỉ giới hạn vào khía cạnh kĩ thuật- kinh tế mà bỏ qua chiều kích tôn giáo và đạo lí thì nó không còn phải là sự phát triển con người toàn diện, nhưng chính sự méo mó lệch diện ấy kết cục sẽ làm phát sinh những khả năng hủy diệt con người.

Những cái nhìn hạn hẹp về con người

10. Do đó, một nhu cầu khẩn thiết nảy sinh, dẫu còn đan xen biết bao những khó khăn và căng thẳng quốc tế hiện nay, về một sự dấn thân để kiến tạo một môi trường sinh thái nhân văn tạo thuận lợi cho sự tăng triển của “cây hoà bình”. Để điều này xảy ra, chúng ta phải được hướng dẫn bởi một hướng nhìn về con người không bị vấy bẩn vì những định kiến ý thức hệ và văn hoá, hoặc vì những nguồn lợi về chính trị và kinh tế vốn có thể dẫn đến thù hận và bạo lực. Người ta có thể hiểu rằng những quan điểm về con người có thể biến đổi theo từng nền văn hóa khác nhau. Tuy nhiên điều không thể nào chấp nhận được đó là việc truyền thụ những khái niệm nhân loại học chất chứa những hạt mầm của thù oán và bạo lực. Cũng không thể nào chấp được những khái niệm về Thượng Đế cổ vũ thái độ bất khoan dung và bảo trợ cho bạo lực chống lại người khác. Đây là một chuẩn điểm cần phải được tái khẳng định một cách minh thị: chiến tranh nhân danh Thượng Đế thì không bao giờ có thể chấp nhận được! Khi một ý niệm nào đó về Thượng Đế là cội nguồn phát sinh những hành vi tội phạm thì đó là một dấu chứng cho thấy rằng ý niệm ấy đã trở thành một ý thức hệ.

11. Tuy nhiên, hôm nay hoà bình không chỉ bị đe doạ bởi sự xung đột giữa những quan điểm giản lược về con người, nói cách khác, giữa những ý thức hệ khác nhau. Nó cũng còn bị đe dọa bởi thái độ dửng dưng đối với điều tạo nên bản tính đích thực của con người. Nhiều người thời nay đúng thực là đã chối bỏ sự hiện hữu của một bản tính nhân loại đặc thù, và như vậy họ mở cửa đón nhận những lí giải kì quái nhất về những gì thiết yếu tạo nên hữu thể con người. Ở đây cũng cần phải minh định thêm: một quan điểm “khiếm khuyết” nào đó về con người sẽ nhường chỗ cho bất cứ quan niệm nào nảy sinh, cho dẫu có kì lạ nhất, thì chỉ hướng về hoà bình một cách giả dối. Thực tế, nó cản trở sự đối thoại chân chính và mở đường cho những áp chế bá quyền, cuối cùng bỏ mặc con người vô phương tự vệ, và như một hậu kết, dễ trở thành mồi ngon cho áp bức và bạo lực.

Nhân quyền và những tổ chức quốc tế

12. Một nền hoà bình đích thực và bền vững đòi phải có sự tôn trọng những quyền con người. Tuy nhiên nếu những quyền này lại đặt nền tảng trên một quan niệm bất túc về con người, thì làm sao chính chúng lại không tỏ ra yếu kém? Ở đây chúng ta có thể nhận thấy quan niệm của học thuyết tương đối về nhân vị tỏ ra thiếu sót nặng nề như thế nào khi nó biện minh và bảo vệ những quyền của nó. Khó khăn trong trường hợp này là hiển nhiên: những quyền đưa ra là tuyệt đối, còn cái nền đặt lên làm điểm tựa lại chỉ là tương đối. Chúng ta có thể tự hỏi, khi gặp phải những đòi hỏi “phiền toái” đặt ra bởi những quyền này quyền nọ, thì người ta sẽ tiếp tục tìm hiểu để tiến hành hay người ta sẽ quyết định gạt bỏ? Nếu được đăt trên những đòi hỏi khách quan về một bản tính đã được Đấng Tạo Hoá phú ban cho con người, thì những quyền thuộc về họ có thể được khẳng định mà không lo sợ là mâu thuẫn. Vả lại, không cần phải lặp lại rằng quyền lợi cũng bao hàm những bổn phận tương ứng. Về vấn đề này, ông Mahatma Gandhi đã phát biểu thật chí lí: “Nếu được một Sông Hằng quyền lợi thì cũng có một núi Hi Mã Lạp Sơn bổn phận.” Chỉ khi nào những tiền đề căn bản này được làm sáng tỏ thì những quyền con người, mà ngày nay thường xuyên bị xâm phạm, mới được bảo vệ một cách thoả đáng. Nếu không được soi rọi như thế thì những lời lẽ “quyền con người” rốt cuộc sẽ được quan niệm bằng những chủ đề rất khác biệt nhau: đối với một số người, nhân vị đã được ghi ấn bằng phẩm giá bất biến và những quyền của họ là luôn luôn hợp pháp, ở mọi nơi và cho mọi người; còn đối với những người khác nhân vị chỉ có một phẩm giá khả biến, và những quyền của họ chỉ là tùy biến, vì còn liên quan đến nội dung, thời gian và không gian.

13. Bảo vệ nhân quyền thường liên quan đến các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên Hợp Quốc, tổ chức tự đặt cho mình trách nhiệm chủ yếu là xúc tiến thực thi các quyền con người được ghi trong Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền năm 1948. Bản Tuyên Ngôn ấy được coi như một hình thức cam kết đạo lí đề ra cho toàn thể nhân loại. Điều này bao hàm một sự thật sâu xa, nhất là khi những quyền ghi trong Bản Tuyên Ngôn đó được tuân thủ để làm nền tảng không chỉ cho những nghị quyết được đại hội đồng thông qua, nhưng còn cho chính bản tính con người và phẩm giá bất khả xâm phạm của họ về một nhân vị đã được Thiên Chúa tạo dựng. Do đó, điều quan trọng là các cơ quan quốc tế đừng đánh mất tầm nhìn về nền tảng tự nhiên của quyền con người. Điều này hẳn sẽ giúp họ giảm thiểu được nguy cơ, thật bất hạnh nhưng vẫn hằng tiềm ẩn, về việc chạy theo một hướng giải thích chỉ mang tính học thuyết thực chứng thuần tuý về những quyền ấy. Nếu điều đó xảy ra, những cơ quan quốc tế sẽ để mất thẩm quyền cần thiết để thực thi vai trò là những người bảo vệ những quyền căn bản của con người và của các dân tộc, điều biện minh chính yếu cho chính sự tồn tại và hoạt động của họ.

Luật quốc tế nhân đạo và luật nội bộ của mỗi Quốc gia

14. Nhìn nhận rằng có những quyền con người bất khả tiếm đoạt liên quan đến bản tính chung của loài người đưa đến việc thiết lập một hệ thống luật quốc tế nhân đạo mà mỗi quốc gia đều cam kết tuân thủ dù cả khi xảy ra chiến tranh. Nhưng bất hạnh thay, chẳng cần phải nói tới những trường hợp đã xảy ra trong qúa khứ, điều này vẫn không được thực thi một cách như nhất trong một số tình huống chiến tranh gần đây. Chẳng hạn như trường hợp xung đột xảy ra cách đây mấy tháng tại miền nam Li- băng, nơi mà nhiệm vụ “bảo vệ và cứu giúp những nạn nhân vô tội” và tránh gây thiệt hại cho các thường dân hầu như đã bị bỏ qua. Tình cảnh thật thương tâm ở Li- băng và hình thái những vụ xung đột mới, nhất là từ khi nạn đe doạ khủng bố mở rộng những hình thức bạo lực hoàn toàn mới, đòi hỏi công đồng quốc tế phải tái khẳng định luật quốc tế nhân đạo, và áp dụng vào mọi tình huống xung đột vũ trang hiện nay, bao gồm cả những tình huống mà hiện nay luật quốc tế chỉ mới dự trù. Hơn nữa, tai hoạ của chủ nghĩa khủng bố đòi hỏi phải có một sự suy nghĩ thấu đáo về những giới hạn đạo đức liên quan đến việc hạn chế việc sử dụng những phương pháp tối tân để bảo đảm an ninh quốc gia. Càng ngày những cuộc chiến tranh không còn được tuyên bố, nhất là khi những cuộc chiến này lại được những nhóm khủng bố mưu toan để quyết tâm đạt cho được mục tiêu của chúng bằng bất cứ phương tiện nào. Đứng trước cục diện bất ổn trong những năm vừa qua, các Quốc Gia không thể không nhận ra nhu cầu cần phải thiết lập những quy tắc rõ ràng hơn để ứng phó một cách hữu hiệu với tình trạng suy thoái bi thảm mà chúng ta đang chứng kiến. Chiến tranh luôn luôn chứng tỏ sự thất bại của cộng đồng quốc tế và là sự mất mát nặng nề đối với nhân loại. Dù vận dụng mọi nỗ lực mà chiến tranh vẫn cứ xảy ra thì ít nhất những nguyên tắc cốt yếu của nhân loại và những giá trị nền tảng về sự sinh tồn của mọi công dân phải được bảo toàn; những quy tắc hành xử phải được thiết lập để hạn chế hết sức có thể những thiệt hại và để giúp làm vơi giảm những đau khổ của thường dân cùng những nạn nhân của các cuộc xung đột (7).

15. Một vấn đề khác đang gây ra quan ngại, đó là ý đồ thủ đắc các vũ khí hạt nhân, mới được phát hiện tại một số Quốc Gia. Điều này càng gia tăng bầu khí bất an vốn đã lan rộng, cũng như mối lo sợ về khả năng xảy ra thảm hoạ nguyên tử. Chúng ta bị đưa ngược trở lại thời điểm đầy những sợ hãi và âu lo trong giai đoạn “chiến tranh lạnh”. Khi giai đoạn đó kết thúc người ta hi vọng rằng hiểm hoạ nguyên tử dứt khoát đã bị loại bỏ và kết cuộc thì nhân loại có thể thở phào nhẹ nhõm. Về điểm này lời nhắc nhở của Công Đồng Vatican II thật hợp thời biết bao: “Mọi hành động hiếu chiến nhằm tiêu diệt bừa bãi nguyên cả một thành phố hay những vùng rộng lớn cùng với dân cư ở đó là một tội ác chống lại Thiên Chúa và chính con người, điều đáng phải cực lực và không ngần ngại kết án (8).” Thật là bất hạnh, những bóng mây đen vẫn cứ tiếp tục phủ kín bầu trời của nhân loại. Con đường để đảm bảo một tương lai hoà bình cho tất cả mọi người không chỉ được tìm thấy trong sự đồng thuận của quốc tế về việc cấm sản xuất vũ khí hạt nhân, mà còn trong thái độ cùng quyết tâm tìm cách giải trừ và gỡ bỏ toàn bộ các vũ khí đó. Ước mong có nhiều cố gắng được thực hiện để đi đến việc thương thảo nhằm đạt đến những mục tiêu này! Vận mệnh của toàn thể gia đình nhân loại tuỳ thuộc vào đó!

Giáo Hội bảo vệ sự siêu việt của nhân vị

16. Sau cùng, tôi muốn khẩn khoản lên tiếng với toàn thể Dân Chúa: ước gì mỗi Kitô hữu hãy dấn thân kiên trì xây dựng hoà bình và ra sức bảo vệ phẩm giá của nhân vị cũng như những quyền bất khả xâm phạm của con người. Người Kitô hữu tri ân Chúa đã kêu mời họ gia nhập Giáo Hội Chúa, là “dấu chỉ và người bảo vệ chiều kích siêu việt của nhân vị (9)” trong thế giới, sẽ không ngừng cầu xin Chúa ban sự thiện hảo căn bản của hoà bình, là điều hệ trọng hàng đầu trong cuộc sống mỗi người. Hơn nữa, họ sẽ cảm thấy tự hào được phục vụ cho hoà bình với sự tận tâm qủang đại khi giúp đỡ các anh chị em của họ, nhất là những người vừa phải chịu cảnh nghèo túng và thiếu thốn lại còn bị tước mất cả điều quý giá của hoà bình. Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta rằng “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4, 8) và ơn gọi cao quý nhất của mỗi người là tình yêu. Trong Chúa Kitô chúng ta có thể tìm thấy lí do tối hậu để trở nên những người quyết tâm bảo vệ phẩm giá con ngừơi và là những người dũng cảm xây dựng hoà bình.

17. Và ước mong mỗi người tín hữu hãy kiên cường góp phần vào việc phát huy một nền nhân bản toàn diện đích thực phù hợp với những giáo huấn của các Thông Điệp Populorum Progressio và Sollicitudo Rei Socialis, mà chúng ta chuẩn bị cử hành ngày kỉ niệm lần thứ bốn mươi và thứ hai mươi trong năm nay. Vào đầu năm 2007, tôi tha thiết dâng lời cầu nguyện cho toàn thể nhân loại lên Nữ Vương Hoà Bình, Thân Mẫu Chúa Giêsu Kitô, “hoà bình của chúng ta” (Ep 2, 14), mà chúng ta đang cùng nhau hướng tới với lòng tràn đầy hi vọng, dẫu biết bao hiểm nguy và khó khăn vẫn đang vây quanh chúng ta. Xin Mẹ Maria chỉ cho chúng ta, trong Con của Mẹ, con đường dẫn đến hoà bình và soi sáng con mắt chúng ta để chúng ta có thể nhận ra dung mạo Chúa Kitô trong khuôn mặt của mỗi con người, là trọng tâm của hoà bình!

Từ Vatican, 8 tháng Mười Hai, 2006

+ BENEDICTUS PP. XVI

(1) x. Giáo Lí Giáo Hội Công Giáo, 357.

(2) Bài giảng 169, 11, 13: PL 38, 923

(3) Số 3.

(4) Bài giảng tại Islinger Feld, Regensburg, 12 tháng Chín 2006.

(5) x. Bộ Giáo Lí Đức Tin, Thư gửi các Giám mục Giáo Hội Công Giáo về việc cộng tác giữa người nam và người nữ trong Giáo Hội và trên thế giới (31 tháng Năm 2004), 15-16.

(6) Số 38.

(7) Về vấn đề này, Giáo Lí Giáo Hội Công Giáo đưa ra những tiêu chuẩn khe khắt và chính xác: x. 2307- 2317.(8) Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 80.(9) Ibid., s. 76.

LM Giuse Ngô Quang Trung chuyển ngữ (Vietcatholic News)