Monday, October 01, 2007

Thérèse de l’Enfant Jésus : CUỘC THÁNH DU KHẮP ĐỊA CẦU

Lúc sinh thời, Nữ Tu Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su (Thérèse de l’Enfant Jésus) đã ao ước được đi truyền giáo tại vùng Viễn Đông, trong đó có đất nước Việt Nam, nhưng Chị đã không hề đi ra khỏi bốn bức tường Dòng Kín.
Thế nhưng, 100 năm sau khi lìa đời, ước nguyện của Chị Thánh lại được thực hiện quá sức mong đợi, khi hài cốt của Chị đã và đang được nhiều Giáo Hội ở khắp các lục địa long trọng đón tiếp và thành kính chiêm bái.
Cuộc thánh du đã khởi sự từ ngày 14.10.1994 tại chính quê hương của Chị là nước Pháp, nơi đã chọn Chị là Thánh Bảo Trợ thứ nhì sau Nữ Thánh Anh Hùng Dân Tộc Jeanne d’Arc. Chặng đầu là đến Lyon, rồi Marseille, Paris và các giáo phận khắp nước Pháp.
Linh Mục Raymond Zambelli, cha chính Giáo Phận Lisieux quê hương của Chị Thánh, kể lại rằng: “Các đám đông tuôn đến với Chị để tạ ơn Chị, để mở tấm lòng ra với Chị, gửi gấm cho Chị những gánh nặng, những niềm vui, những ưu phiền của họ...”
Từ năm 1995 đến 1997, cuộc thánh du của Thánh Nữ Tê-rê-xa được tiếp tục tại Bỉ, Luxembourg, Đức và Ý. Trong thời gian Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Paris tháng 8.1997, hàng vạn thanh niên thiếu nữ đã ngày đêm đến kính viếng hài cốt của Chị được đặt tại Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Chiến Thắng.
Kế đó, ngày 19.10.1997, Chị lại hiện diện ở quảng trường Thánh Phê-rô, nơi Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô đệ nhị long trọng tôn vinh Chị Tê-rê-xa là Tiến Sĩ Hội Thánh, vị Nữ Tiến Sĩ trẻ nhất, chỉ có 24 tuổi, trong 33 vị của Hội Thánh. Sau Rô-ma, cuộc hành trình tiếp tục đến thành phố Milano nước Ý, rồi băng qua các nước Thụy Sĩ, Áo và Slovénia.
Trong cả năm 1998, hài cốt của Chị được kiệu đi khắp đất nước Brasil rộng lớn, cũng là nước đông người Công Giáo nhất thế giới, và cách đây 70 năm, Giáo Hội Brasil đã dâng kính Chị chiếc hòm rương để đựng hài cốt.
Đầu năm 1999, Giáo Hội Hà Lan đã đón tiếp Chị. Kế đó, từ ngày 27.2 đến 30.6, chuyến thánh du được tổ chức trong toàn nước Nga, trên một lộ trình dài 30.000 cây số đến tận Sibéria, ghé qua Kazakhstan giáp biên giới với Trung-quốc.
Từ ngày 1.7 đến 4.10.1999, hài cốt của Chị được rước đi khắp Argentina, và sau đó, tới phiên 112 thành phố của Hoa Kỳ sẽ đón tiếp Chị.
Sang năm 2000, cuộc thánh du chưa chấm dứt, vì vào tháng giêng, từ đảo Hawai, hài cốt Thánh Nữ sẽ được rước đến Phi Luật Tân, Đài Loan, Hồng Kông. Để rồi, đúng vào Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tháng 8.2000, Chị sẽ quay về Rô-ma, và sau đó sang Mexico trong 4 tháng, cho đến đầu năm 2001. Kế đó, suốt năm 2002, Chị sẽ viếng thăm các nước Ái Nhĩ Lan, Liban, các nước vùng Cận Đông, Canada, Phi châu và Polynésie...
Theo Cha Sở Nhà Thờ Chính Tòa Raymond Zambelli, thì đây chính là một cuộc thánh du truyền giáo, bởi: “Người ta không đến để nhìn ngắm một bộ hài cốt, nhưng là để gặp gỡ một con người mà họ yêu mến, một con người mà cuộc đời đã gắn bó với Tin Mừng”.
Từ những cuộc gặp gỡ như thế, nhiều người đã sám hối quay về với Chúa, có cả những người được chữa lành về thể xác.
Cuộc thánh du của hài cốt Thánh Nữ Tê-rê-xa đã như là một cơn mưa hồng ân, đúng như ý nguyện của Chị là được đi ttruyền giáo, và cũng như lời hứa của Chị là khi về Trời, Chị sẽ rải hoa hồng cho khắp muôn dân nước trên địa cầu.
ĐÌNH KHẢI, báo CGDT số 1227, 1.10.1999 (trích từ Blog FIAT)

ĐƯỜNG NÊN THÁNH CỦA TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU

Ngày xưa còn bé, lúc tôi vừa chân ướt chân ráo vào tiểu chủng viện, người ta đã trao đến tôi cuốn “Một tâm hồn” của thánh Têrêsa như là cuốn sách phải đọc, để học đời sống thiêng liêng. Thú thực, trong mắt nhìn của cậu bé ham chơi là tôi lúc ấy, cuốn “Một tâm hồn” quả là một cuốn truyện vui với những trò chơi tuyệt vời. Từ chuyện đi ngang về tắt chui qua bụng ngựa đến chuyện ngắm mãi không chán ống kính vạn hoa, từ chuyện nhìn trời buổi tối bỗng thấy sao kết tên mình đến chuyện nhìn đất lượm lên một cọng rác cũng vòi Chúa giải thoát cho một linh hồn. Tất cả đều là chuyện vui của một cô bé ưu được nuông chiều.
Nhưng lớn lên có dịp nghiềm gẫm nhiều hơn, tôi mới ngộ ra rằng: Đằng sau những trò tưởng là trẻ con “mít ướt” ấy lại là cả một tâm tình tự nhiên của trực giác tuổi thơ, cộng thêm những thao thức vươn lên của ước mơ xuân trẻ, và đi đi về về trên những nẻo đường vừa thơ vừa trẻ ấy là nhấp nhô những cây thánh giá của hy sinh đong đầy hy vọng. Đó là đường nên thánh của Têrêsa.
1. Đường nên thánh của Têrêsa được dệt bằng những tâm tình tự nhiên tuổi thơ.
Người ta vẫn quen gọi đây là “đường thơ ấu thiêng liêng”, nghĩa là đường nên thánh khởi đi từ những tâm tình tuổi nhỏ. Rất đẹp và rất thơ. Một phương cách tuy không mới tuyệt đối, vì Chúa Giêsu đã gợi lên từ xưa: “Ai không nên như trẻ nhỏ sẽ chẳng được vào Nước Trời”, nhưng chính Têrêsa đã đem đến cho phương cách này một nét hấp dẫn mới và một độ rộng mới phù hợp trong tầm với của mọi người, dù là giáo sĩ hay tu sĩ hoặc giáo dân, dù là trí thức bụng đầy chữ nghĩa hay là bình dân ít học. Hết thảy đều có thể sử dụng phương cách này hoặc đi trên con đường này. Người Mỹ gọi xa lộ của họ là freeway, nghĩa là đường tự do ra vào, không phải thuê bao, không cần mua vé. Đường thơ ấu thiêng liêng cũng thế, là freeway mở ra cho hết mọi người.
“Nên như trẻ nhỏ” là phương cách của Phúc âm. Nhưng nên như thế nào lại là điều thuộc về phong cách của Têrêsa. Thật vậy, qua chuyện “Một tâm hồn”, thánh nữ đã vận dụng rất tự nhiên mọi biến cố xảy đến trong đời để, phải nói là, nũng nịu và vòi vĩnh Chúa dẫn mình trên đường nên thánh.Ai trong chúng ta cũng biết tình yêu là điều đáng giá nhất trên đời, và chẳng cần bảo ai, người ta vẫn cứ thi nhau làm những việc càng lớn càng tốt để diễn tả tình yêu ấy. “Yêu nhau mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua”. Có biết đâu tình yêu xét cho cùng cũng là điều thuộc về trật tự của tấm lòng, thế nên, khi có tấm lòng lớn, thì dù việc làm có khiêm tốn đến đâu đi nữa, cũng vẫn là một tình yêu đầy đặn vuông tròn. Nhất là khi tấm lòng ấy xin dành cho Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Đó là nét đầu tiên của đường thơ ấu Têrêsa.
2. Đường nên thánh của Têrêsa cũng được ghi dấu bằng những ước mơ tươi trẻ.
Nếu “giống như tuổi thơ”, Têrêsa đã tham lam ôm lấy mọi biến cố trong đời, dù vui hay buồn, dù lớn hay bé. dù hữu ý hay vô tình, dù được người khác biết đến hay không, để làm thành vốn liếng sinh lời trong tình yêu Chúa, thì độ bền của nẻo đường thiêng liêng ấy lại ngày từng ngày làm bằng những thao thức trẻ trung táo bạo.
Trẻ trung ở chỗ thánh nữ luôn bị thiêu đốt bời những ước mơ, nói theo kiểu Sea Games, là mơ “cao hơn xa hơn và nhanh hơn” trên đường thánh đức. Có lần Têrêsa muốn yêu Chúa thật nhiều như chưa bao giờ Chúa được yêu như thế. Lần khác thánh nữ lại muốn lên đường truyền giáo thật dài như đường đi của loài người mọi thời gom góp lại.
Táo bạo ở chỗ thánh nữ dù sống trong một đan viện kín cổng cao tường, như Đan viện Cát Minh Saigon đây, Ngài cũng không chịu dừng lại đôi cánh ước mơ, mà còn vươn lên những đỉnh cao thao thức, như khi một mình dưới ánh sáng Lời Chúa trong thơ 1 Côrintô chương 12, Têrêsa đã reo lên vì khám phá ra rằng: từ nay trong Giáo hội mình sẽ là trái tim, trong trái tim mình sẽ là tình yêu, và trong tình yêu mình được ở trong lòng Thiên Chúa là Cha.
Thế đó, ước mơ trẻ trung và táo bạo, như con ốc nhỏ mơ uống cả đại dương tình thương Thiên Chúa, để dù phận ốc phải chôn vùi ở đáy sâu thầm lặng, cũng vẫn hiên ngang có Chúa gần kề, và dù có phải chết trong kiếp người đi nữa, cũng vẫn tin yêu phó thác, vì như Têrêsa đã quả quyết lúc lâm chung: “Tôi không chết, nhưng tôi đi vào cõi sống”.
3. Đường nên thánh của Têrêsa còn là đường ngã nghiên bóng cây Thánh giá.
Đẹp như tuổi thơ, đẹp như ước mơ, nhưng trên nẻo thiêng liêng ấy, Têrêsa đã gặp không ít khó khăn. Có điều là ngài chủ động tiếp nhận như Thánh giá gieo mầm cứu độ.
Chín tháng đầu tiên trong nhà kín Lisieux, Têrêsa đã cảm nhận thật nhanh hương vị Thánh giá, tức là cái giá phải trả cho sự thánh đức. Đó là những muộn phiền về gia cảnh cha già neo đơn (nhớ nhà); đó cũng là những chịu đựng trước ánh nhìn của người khác, và đó còn là những vật lộn với chính bản thân khi phải trút bỏ tất cả để thích nghi được với cuộc sống chung. Về giai đoạn này, Têrêsa tâm sự là ngài đã gặp nhiều gai nhọn hơn hoa hồng, ngài viết: “Đau khổ đã giang tay đón tôi và tôi đã gieo mình vào khổ đau với lòng yêu mến”.
Nhưng Thánh giá thường xuyên hơn cả trong suốt chín năm tu trì của ngài chính là những nỗi đau âm ỉ trong tâm hồn kia, như thấy mình bất toàn kiểu Phêrô: “Tinh thần thì mau lẹ nhưng xác thịt lại yếu đuối”, như thấy mình bị bỏ rơi không niềm an ủi kiểu “con tim vô tình”, như thấy mình mỏi mệt nản lòng kiểu “hai môn đệ trên đường Emmaus”. Song cũng khởi đi những Thánh giá trong lòng vốn nhiều thao thức ấy, thánh nữ khám phá ra tâm tình phó thác làm thành ý tưởng chủ đạo giúp ngài nên thánh, đó là “muốn những gì Chúa muốn”.
Đã dành, ai cũng có thể gặp đau khổ cách này cách khác, nhưng biết đón nhận đau khổ theo phong cách Têrêsa bằng niềm đam mê dâng hiến nguyện cầu truyền giáo, thì quả là đã nhận lấy Thánh giá một cách hiệu quả nhất. Đó là đường Thánh giá của hy sinh và cũng là đường Thánh giá của hy vọng.Tóm lại, đường nên thánh của Têrêsa là một tâm tình tuổi thơ, là một ước mơ xuân trẻ, và cũng là chia sẻ tình yêu Thánh giá. Đó là trực giác một thời, nhưng cũng là bền bỉ một đời. Và trên hết là Hồng Ân Thiên Chúa. Nẻo đường ấy rất thênh thang hôm nay được đặt vào tầm tay của mọi người.Sống tâm tình con thảo trước Chúa là Cha yêu thương gần gũi, để reo vui trước những thành công, cảm thông trước khi thất bại và quảng đại dâng hiến chẳng tiếc với Chúa bất cứ sự gì. Đó là khởi đầu tập đi trên đường thơ ấu. Vẫn biết rằng “dòng đời không êm ái như dòng sông”, như dòng tu, nhưng đẩy ước mơ lên những đỉnh cao lành thánh như góp phần hy sinh cầu nguyện cho thế giới hòa bình hơn, cho người người thương yêu nhau hơn, cho thị trường công bình hơn, cho chân lý tỏa sáng hơn, cho mình cho gia đình cho cộng đoàn được nên thánh hơn. Đó cũng là những bước chân âm thầm trên đường thơ ấu. Và với tình yêu phó thác sẵn sàng đón nhận tất cả như hồng ân, cho dẫu là hồng ân vinh quang hay Thánh giá, thể xác hay tâm hồn, cá nhân hay Giáo hội, đó chính là tuyệt chiêu trẻ trung trên đường thơ ấu Têrêsa.
Đường nên thánh của Têrêsa như “chiếc thang máy tình yêu” rộng mở. Ai vào, thang sẽ tự động nâng lên. Vấn đề là ta có thích bước vào hay không? Câu trả lời xin dành riêng cho từng người hôm nay. Còn bây giờ là chứng từ của cô Linsay Youce người đóng vai chính trong một cuốn phim mới về thánh Têrêsa thành Lisieux. Cô đã trở lại đạo sau khi cuốn phim được hoàn thành. Được hỏi: điều gì hấp dẫn nhất nơi Têrêsa? Câu trả lời: Đó là việc nên thánh ngay trong tầm tay của mọi người.Mong rằng đó cũng là điều hấp dẫn chúng ta.
Giuse Vũ Duy Thống, GM Phụ tá

Sunday, September 30, 2007

Một câu chuyện mang hai sứ điệp

Ở đời biến cố câu chuyện nào cũng ẩn chứa mang sứ điệp nào đó nhắn gửi cho mọi người. Câu chuyện ngụ ngôn trong Phúc âm Thánh Luca 16,10-31 về người nghèo Ladarô và người giầu có mang ẩn chứa hai sứ điệp.
Sứ điệp niềm an ủi và sứ điệp nhắc nhở.
Trong đời sống ai cũng cần được an ủi. Và ai cũng có thể trao tặng an ủi cho người khác. An ủi và lòng trắc ẩn thương xót gắn liền với nhau.
An ủi có nhiều cách: bằng lời nói, bằng việc giúp đỡ, bằng dòng nước mắt cảm thông, bằng ánh mắt từ bi nhân hậu trong âm thầm cùng thông hiểu.
Sứ điệp niềm an ủi trong câu chuyện về người nghèo khổ Ladarô muốn nói lên: Điều công bằng trước sau rồi cũng được phơi bày ra. Điều bất công phải chịu khổ cực thiệt thòi sẽ có ngày chấm dứt. Và nó không bao giờ là tiếng nói quyết định sau cùng.
Thiên Chúa, đấng tạo dựng nên con người, không muốn con người bị chìm đắm trong thống khổ. Ngài tỏ lòng nhân từ thương xót với người đau khổ. Ngài là Thiên Chúa của sự công bình.
Thường có thắc mắc: Tại sao có những người suốt đời chịu đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần lúc còn sống cho tới khi chết. Lại có những người được hưởng phần thưởng sung sướng lúc còn sống và lúc chết cũng còn được hưởng chút sung sướng mồ êm mả đẹp nữa. Công bình ở đâu vậy?
Trước thắc mắc này, con người chúng ta không có câu trả lời bằng chữ nghĩa lời nào cho thỏa đáng. Chỉ lòng tin mới giúp ta được thôi. Và chính lòng tin là niềm cậy trông an ủi cho đời sống hiện tại cũng như mai sau.
Ông Ladarô nghèo khổ trong câu truyện của Phúc Âm là một thí dụ điển hình cho lòng tin, mà Chúa Giêsu muốn nêu ra cho ta học hỏi tìm ra câu trả lời.
Sứ điệp thứ hai ẩn chứa trong câu truyện ngụ ngôn là lời nhắc nhở: Những người có may mắn có của cải đừng nhắm mắt làm ngơ trước cảnh nghèo khó của những người khác.
Tình liên đới lòng bác ái là sự công bình trong đời sống. Người nghèo khó xấu số cũng có gía trị là một con người trước mặt Thiên Chúa. Chỉ tình yêu lòng bác ái là ranh giới phân biệt tốt xấu trước mặt Thiên Chúa.
Ở đời xưa nay luôn có hai dòng sống đi cạnh nhau trong xã hội: giầu và nghèo. Nhưng trong đời sống đức tin vào Thiên Chúa không như vậy: mọi người đều là con Thiên Chúa như nhau.
Sự công bình thưởng phạt của Ngài khác với sự suy đoán của con người.
Hình ảnh một cây cầu bắc ngang qua một dòng sông giữa hai bên bờ cho con người di chuyển qua lại nói lên phần nào ý nghĩa bài học con người hai bên bờ sông cần thông thương với nhau thế nào, cũng như người nghèo cần người giầu có và ngược lại người giầu có cần người nghèo thế nào trong đời sống.
Trong việc chính trị kinh tế cũng thế. Các người giầu có tư bản được khuyến khích bỏ vốn đầu tư tạo ra công ăn việc làm cho những người nghèo. Người nghèo cần những người giầu có bỏ vốn đầu tư mới có công ăn việc làm. Từ đó đời sống phát triển vươn lên. Hai bên đều cần nhờ nhau. Hai bên cùng giúp nhau.
Họ giúp nhau không chỉ về kinh tế giầu thêm lên, cho có cơm ăn áo mặc. Nhưng còn nâng đỡ giúp nhau phát triển đời sống tinh thần làm người nữa: đời sống tương thân tương trợ kiến tạo.
Một đời sống tương trợ nhau như thế là một xã hội có hòa bình như Thiên Chúa mong muốn.Lm. Nguyễn ngọc Long

SỐNG YÊU THƯƠNG (Chúa Nhật XXVI TNC)

Khi suy gẫm hình ảnh ông phú hộ và anh Ladarô nghèo khó trong trang Tin mừng, giờ đây chúng ta đang bị thôi thúc bởi tiếng Chúa mời gọi phải trở về với giới răn yêu thương, từ đó mọi người hãy tìm cho mình những cách sống phù hợp với giới răn cao quý ấy, nhờ đó mà chúng ta sẽ được cứu độ.
1/ GIỚI RĂN YÊU THƯƠNG:
Giới răn yêu thương chính là lời trối của Đức Giêsu trước khi Ngài giã từ thế gian về với Chúa Cha : “Đây là điều răn của Thầy : anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12)
Khi dạy sống yêu thương thì chính Chúa cũng đã nêu gương trước cho chúng ta về lối sống tuyệt vời này. Vì cả cuộc đời của Chúa Giêsu là cả thời gian Ngài sống để yêu thương mọi người, nhất là người nghèo khó. Vì Chúa đã khẳng định : “ Thần khí Chúa ngự trên Tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong Tôi, để Tôi loan báo Tin mừng đến cho kẻ nghèo hèn” ( Lc 4,18)
Chúa Giêsu đến với người nghèo khó bằng cả con tim của Ngài. Con tim chạnh lòng thương với những người què quặt, những người đui mù, những người câm điếc, những người phong cùi, những người bất hạnh, những người bị bỏ rơi, những người tội lỗi, những người đói khát… Những người này luôn là những nỗi thao thức của Đức Giêsu, là những đối tượng để Đức Giêsu đem tình thương đến cho họ bằng những việc làm để cứu chữa và nâng đỡ họ.
Sau này tình yêu của Chúa Giêsu đã thể hiện đến cùng, đã đạt đến đỉnh cao khi Chúa tự hiến mình qua Bí Tính Thánh Thể. Từ giờ phút linh thiêng ấy thì tình yêu của Đức Giêsu đã trở nên trọn vẹn. Từ đây thời gian Chúa phục vụ yêu thương trong quá khứ đã được ứng nghiệm nơi Bí Tích Thánh Thể. Thời gian phục vụ yêu thương của ngày mai và tương lai phải được khơi nguồn và củng cố từ Bí Tích Thánh Thể. Vì Bí Tích Thánh Thể là Bí tích Tình Yêu. Gọi là Bí Tích Tình Yêu vì Chúa Giêsu đã lấy chính sự sống của Ngài để chia sẻ, để nâng đỡ, để nuôi dưỡng chúng ta không những trong cuộc sống hiện tại, mà còn hướng đến một cuộc sống tương lai vĩnh cửu như lời Chúa đã nói : “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì sẽ được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” ( Ga 6,54).
Khi trở về thời gian mà Đức Giêsu đã nêu gương cho chúng ta về cách sống giới răn yêu thương. Thì đây cũng là thời điểm mà Chúa gọi chúng ta phải sống giới răn yêu thương như Chúa.
2/ SỐNG GIỚI RĂN YÊU THƯƠNG:
Sống giới răn yêu thương luôn đòi hỏi chúng ta phải có cách sống quảng đại. Dù chúng ta có tiền rừng bạc bể, nhưng lòng chúng ta không quảng đại thì đó là sự thiệt thòi mất mát rất lớn cho chúng ta.
Hình ảnh ông phú hộ giàu có, mặc toàn lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình. Đó là hình ảnh nói lên một cuộc sống sung túc tại trần gian. Nhưng ông không biết tận dụng những gì ông có để mua cái tốt hơn cho cuộc sống của ông. Cuối cùng thì ông đã mất tất cả. Ông mất tất cả vì ông đã hẹp hòi với sự sống của một con người cũng có nhân phẩm như ông là anh Ladarô nghèo khó. Ông mất tất cả vì ông làm ngơ trước những nhu cầu của một con người giống như ông, là cần có ăn, có uống, để nối dài sự sống như anh Ladarô nghèo khó. Ông mất tất cả vì cuộc sống của ông nói lên hình ảnh của một nếp sống giàu có, nhưng cách sống của ông thì không có quả tim yêu thương, quả tim quảng đại, nên ông phải đành chung số phận với những người không được Chúa chúc phúc, đó là phải chịu cực hình muôn thuở mà Chúa đã phạt cho những kẻ sống ích kỷ, hẹp hòi.
Đến đây chúng ta sẽ hiểu thế nào để được sống hạnh phúc, để được sống trọn lành. Con đường sống trọn lành và hạnh phúc ấy Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta là: “ Hãy đi bán tài sản và đem bố thí cho người nghèo thì chúng ta sẽ được một kho tàng trên trời” (x Mt 14,21)
Về điểm này Chúa muốn dạy chúng ta là phải có tinh thần nghèo khó. Tinh thần nghèo khó ở đây là đòi hỏi chúng ta phải biết yêu mến sự sống con người hơn là tiền của, yêu mến cách sống giới răn yêu thương hơn là vật chất, yêu mến hạnh phúc mai sau hơn là thứ hạnh phúc hiện tại nay còn mai mất tại trần gian.Vì thế Chúa luôn luôn gọi những người nghèo khó là những người có phúc: “ Phúc cho ai có tinh hần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” ( Mt 5,5)
Cũng vậy đến ngày phát xét, mọi người chúng ta bị phán xét khi Chúa dựa trên tiêu chuẩn chúng ta đã sống giới răn yêu thương như thế nào ? Vì thế chúng ta hãy cố gắng sống trọn vẹn giới răn yêu thương của Chúa để sau này chúng ta sẽ vui mừng khi Chúa phán với chúng ta: “ Nào hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống, Ta là khách lạ các ngươi đã tiếp rước, Ta trần truồng các ngươi đã cho Ta mặc, Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm, Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” ( Mt 25,34-36).
Là Kitô hữu, chúng ta rất an tâm vì được giáo dục bởi Lời Chúa và lời dạy của Hội Thánh. Nếu chúng ta can đảm đi theo sự hướng dẫn của Lời Chúa và Hội Thánh, chắc chắn chúng ta sẽ không lạc đường, nhưng sẽ đạt đến con đường sống trong hạnh phúc. Và hôm nay, con đường hạnh phúc mà Chúa chỉ cho chúng ta đi tới, đó là phải sống giới răn của Chúa bằng việc sống bác ái yêu thương.
Để sống bác ái yêu thương cách trọn vẹn, gần đây chúng ta còn được hướng dẫn thêm bởi lời giáo huấn của Đức Thánh Cha Bênêdictô 16, khi Ngài gặp gỡ các tổ chức thiện nguyện, trong chuyến viếng thăm mục vụ tại Nước Áo từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 9 năm 2007. Đức Thánh Cha đã nói : “Công tác thiện nguyện là thuộc về một nền văn hoá không muốn tính toán… Tất cả đều có một điểm xuất phát chung là sự “ nhưng không, miễn phí”. Chúng ta đã lãnh nhận sự sống một cách nhưng không từ Đấng tạo hoá, được giải thoát nhưng không từ con đường mù quáng của tội lỗi và sự ác, được ban Thánh Linh cách nhưng không với các Hồng Ân đa dạng của Ngài… Chúng ta thông truyền một cách nhưng không những gì chúng ta nhận lãnh, qua sự dấn thân và công tác thiện nguyện của chúng ta.
Từ những cảm nghiệm bởi Lời Chúa hôm nay, cùng với những lời dạy của Đức Thánh Cha Bênêđictô 16, chúng ta xin Mẹ Maria giúp chúng ta có một cách sống quảng đại như Mẹ. Nhờ đó mỗi phút giây hiện tại của cuộc sống là mỗi phút giây chúng ta đem Tin mừng yêu thương phục vụ của Chúa cách nhưng không đến cho những người nghèo khổ bất hạnh. Nhờ vậy mà tình thương đối với tha nhân ngày càng gia tăng trong ta. Và tình thương của Thiên Chúa càng ngày càng dồi dào trong cuộc đời chúng ta hôm nay và mai sau.
Lạy Mẹ Maria! Xin Mẹ giúp chúng con. Amen
LM. Giuse Nguyễn Minh Chánh

Chúa Nhật 26 Thường Niên - 26th Sunday in Ordinary Time (Luke 16:19-31)

Bài Đọc I: Amos 6:1,4-7 II: 1 Timothy 6:11-16
Phúc Âm Luca 16:19-31
19 "Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình.20 Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu,21 thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.22 Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Ápraham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.23 "Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Ápraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ.24 Bấy giờ ông ta kêu lên: "Lạy tổ phụ Ápraham, xin thương xót con, và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!"25 Ông Ápraham đáp: "Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn phải chịu khốn khổ.26 Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được".27 "Ông nhà giàu nói: "Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha con,28 vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!"29 Ông Ápraham đáp: "Chúng đã có ông Môsê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó".30 Ông nhà giàu nói: "Thưa tổ phụ Ápraham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối".31 Ông Ápraham đáp: "Ông Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin đâu".
Chi Tiết Hay
Trong Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước, Đức Giêsu đã kể dụ ngôn người quản gia bất lương và kết luận rằng không ai được làm tôi hai chủ. "Người Pharisêu vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy thì cười nhạo Đức Giêsu" (16:14). Họ nghĩ rằng của cải là dấu chỉ được Chúa đặc biệt hậu đãi. Vì thế, Đức Giêsu đã kể thêm một dụ ngôn khác về người giầu có và Lazarô để lên án thái độ tự mãn của họ.
(c.19) Người giầu có thì không được nêu danh tính trong khi người ăn xin thì được nêu rõ tên như có ý muốn đảo ngược lại quan niệm thông thường. Người giầu có ở đời này đổi ngược lại số phận với người ăn xin ở đời sau. Sự kiện này như nhắc lại những điều được chúc phúc và bị nguyền rủa ở trong bài giảng Các Mối Phúc Thật (6:20,24).
(c.24) Không phải cứ kêu lên: "cha Abraham", là đủ để làm cho người ta trở nên con cái của ông và được hưởng ơn cứu chuộc. Gioan Tẩy Giả đã nói "Đừng vội nghĩ bụng rằng 'Chúng ta đã có tổ phụ Abraham' thì đã đủ để được cứu chuộc" (Lk 3:8); nhưng phải "sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối".
"Xin thương xót tôi": Điều oái ăm là bây giờ người giầu có lại trở thành kẻ ăn xin.
(c.29) Lời của Thiên Chúa qua Môi sen và các ngôn sứ chính là thánh ý của Thiên Chúa cho những ai tìm kiếm. Đức Giêsu đã cho hiểu rằng Ngài không phá hủy Lề Luật (16:17), vì thế luật buộc phải bố thí cho người nghèo vẫn có giá trị. Người giầu có không phải là người được Thiên Chúa đặc biệt hậu đãi. Nhưng họ có bổn phận phải chia sẻ cho người nghèo theo luật buộc.
(c.31) Đối với những người đã có lòng chai đá thì dù cho có người về từ cõi chết cũng sẽ không thuyết phục được họ. Dụ ngôn Chúa kể cho những người Pharisêu, đã như là một sự khước từ. Họ cứng đầu tiếp tục con đường hư vong giống như người giầu có đã đi. Nếu họ đã coi thường Lề Luật, thì lời giáo huấn của Chúa chẳng thay đổi gì được họ.
Một Điểm Chính: Hãy dùng của cải một cách khôn ngoan, vì của cải chỉ là những gì Thiên Chúa cho chúng ta tạm giữ để giúp đỡ người nghèo khổ.
Suy Niệm
1. Bạn cảm thấy thế nào mỗi khi gặp người hành khất ngoài đường?
2. Những điều kể trong Phúc Âm có vẫn còn đang xảy ra ngày hôm nay chăng? Bạn thấy mình có những điều gì giống người giầu có?, và có những gì giống người nghèo khó trong đoạn Phúc Âm hôm nay?
---------------------------------------------
26th Sunday in Ordinary Time
Reading I: Amos 6:1,4-7 II: 1 Timothy 6:11-16
Gospel Luke 16:19-31
19 "There was a rich man, who was clothed in purple and fine linen and who feasted sumptuously every day.20 And at his gate lay a poor man named Laz'arus, full of sores,21 who desired to be fed with what fell from the rich man's table; moreover the dogs came and licked his sores.22 The poor man died and was carried by the angels to Abraham's bosom. The rich man also died and was buried;23 and in Hades, being in torment, he lifted up his eyes, and saw Abraham far off and Laz'arus in his bosom.24 And he called out, 'Father Abraham, have mercy upon me, and send Laz'arus to dip the end of his finger in water and cool my tongue; for I am in anguish in this flame.'25 But Abraham said, 'Son, remember that you in your lifetime received your good things, and Laz'arus in like manner evil things; but now he is comforted here, and you are in anguish.26 And besides all this, between us and you a great chasm has been fixed, in order that those who would pass from here to you may not be able, and none may cross from there to us.'27 And he said, 'Then I beg you, father, to send him to my father's house,28 for I have five brothers, so that he may warn them, lest they also come into this place of torment.'29 But Abraham said, 'They have Moses and the prophets; let them hear them.'30 And he said, 'No, father Abraham; but if some one goes to them from the dead, they will repent.'31 He said to him, 'If they do not hear Moses and the prophets, neither will they be convinced if some one should rise from the dead.'"
Interesting Details
In last Sunday's Gospel, Jesus told the parable of the unjust manager and drew the conclusion from it that one cannot serve both God and money. "The Pharisees, who loved money, heard all these things and laughed at Him" (16:14). They seem to think that their possessions are a sure sign of God's favor. So, here Jesus tells another parable of the rich man and Lazarus to condemn the pride of these people and gives them the answer.
(v.19) The rich man is nameless while the poor man's name is given as if to reverse the world's opinion. The parable is rather a conventional reversal of fortune. Those who are well off in this life trade places with the poor in the next life. It echoes the blessings and woes in the Sermon on the Plain (6:20,24).
(v.24) "father Abraham": Mere words do not make one a child of Abraham and an assurance of salvation. John the Baptizer had already indicated that it was not enough to claim "we have Abraham as our father" (Lk 3:8); but one must "produce deeds appropriate to conversion".
"have mercy on me": The irony of the story is that the rich man now requests "mercy" who did not show mercy in almsgiving to the poor man.
(v.29) The word of God revealed through Moses and the Prophets makes God's will clear to anyone who seeks it. Jesus has not abolished the Law (16:17), thus the Law about almsgiving is still valid. The rich are not privileged in God's sight. They have the obligation to care for the needy.
(v.31) Even something as astounding as the resurrection from the dead will not convince those whose minds are closed to God's truth. Addressed to the Pharisees, Jesus' parable is a message of rejection. The obstinate Pharisees would continue on their merry way to perdition, as did the rich man in this story. If the teachings of the Law are shrugged off as unimportant, even the teachings of the risen Lord will have no impact.
One Main Point: Use our possessions wisely, they are on loan from God and have to be used to help the poor.
Reflections
1. How do you feel when you see a street person?
2. How is the Gospel situation true of the present time? In what ways do you identify with the rich person? In what ways do you identify with the poor person in the Gospel?